Trang bị cá nhân của lính Mỹ trong chiến tranh Việt Nam
Trang bị cá nhân của lính Mỹ trong chiến tranh Việt Nam được chuẩn bị rất chu đáo và còn phân biệt ra nhiều loại, nhằm đáp ứng từng công việc khác nhau
Trang phục của lính Mỹ cơ bản dựa trên trang phục của lính nhảy dù trong thế chiến thứ II ngoại trừ trang phục của lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ hoặc lính Mỹ hoạt động ở những khu vực đặc thù hay công tác đặc thù. Trang phục sử dụng vải cotton nhanh khô, bền, khó xé rách nhằm bảo vệ người lính khỏi ánh nắng mặt trời, côn trùng cắn, …
Áo đa năng giảm mệt mõi
Áo làm bằng vải cotton – sateen được nhuộm dầu olive với 2 túi thẳng và hàng nút ló ra ngoài
Áo kiểu rừng nhiệt đới :
Được làm từ cotton chống gió hoặc sợi poplin hoặc từ sợi Rip-Stop nhẹ bền, không thấm nước, nhuộm dầu Oliu đậm màu có 2 túi trên và 2 túi dưới.
Quần kiểu đi rừng
Được làm từ cotton chống gió hoặc sợi poplin hoặc từ sợi Rip-Stop nhẹ bền, không thấm nước, nhuộm dầu Oliu đậm màu có 2 túi trước, 2 túi ngang, 2 túi dưới phía sau, 1 túi nhỏ nằm trong túi bên trái để mang gói cấp cứu khẩn cấp. Phía dưới có dây cột túm ống chân
Giày đi rừng
Đây là kiểu giày lính bằng da đen, phía trên bằng vải nylong xanh, mỗi bên có 2 lỗ để tránh hầm chân và cũng để thoát nước khi lội nước hay sình lầy, trời mưa, …. Gót cao và được tạo nhiều ma sát để chống trượt bùn, đường trơn và phía dưới giày có tấm thép để chống đạp chông
Nón nhiệt đới – ERDL Boonie Tropical Hat
Đây là kiểu nón bằng vải mềm với chất liệu cotton poplin hay rip-stop, dưới cằm có dây đeo, phía trên có nhiều lỗ nhỏ thoát hơi. Bên trong có thể lót thêm tấm chống côn trùng. Cả quân Mỹ, Thủy quân Lục Chiến lẫn binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa đều dùng kiểu nón này
Nón sắt M1
Nón sắt M1 Helmet của lính Mỹ trong chiến tranh Việt Nam có chiều cao thấp hơn 1 chút so với kiểu nón M1 thời thế chiến thứ II, còn cơ bản những thứ khác đều không thay đổi. Phía dưới có dây thắt ở cằm để cố định nón. Phía ngoài có thể phủ thêm vải ngụy trang. Lính Mỹ thường vẽ vời hoặc ghi nhiều dòng chữ phản ánh tính cách, tâm trạng, … lên nón. Trọng lượng nón khoảng 1.3Kg
Thắt lưng M1956
Đây là kiểu thắt lưng để quân Mỹ có thể móc những thứ khác vào đó như túi đạn, bao súng ngắn, bi đông nước, … Còn 1 kiểu nữa là thắt lưng Davis – Davis belt. Với thắt lưng M1956 là 2 đầu móc còn, thắt lưng Davis là 2 đầu gài. Lính Mỹ ưa chuộng M1956 hơn do thắt lưng Davis dễ bị bung khi nằm sấp
Túi đạn M1956 thông dụng
Đây là túi đạn tiêu chuẩn cho băn đạn M16, được giới thiệu lần đầu vào năm 1957, túi đạn này thoạt đầu dành để chứa đạn súng trường M14 chứ không phải M16. Trong chiến tranh Việt Nam, quân Mỹ được dặn đặt băng cứu thương vào túi này trước, sau đó đặt các băn đạn súng M16 thì sẽ vừa vặn. Đến năm 1967, 1968 khi súng M16 bắt đầu được trang bị đại trà cho quân đội Mỹ, kiểu túi M1956 nhỏ hơn mới được sử dụng nhằm vừa vặn với băng đạn M16 hơn
Túi la bàn M1956 Compass Pouch
Được dùng để chứa la bàn hoặc bản đồ hành quân, có thể móc vào dây thắt lưng M1956 hoặc thắt lưng Davis
Bi đông nước M1956 1 Quart Canteen
Nặng 150gr bằng chất liệu nhựa cứng, nó thay thế kiểu M1910 trước đây bằng kim loại không rỉ sét. Chỉ có các bi đông trang bị cho binh sĩ tham chiến ở Việt Nam mới có đánh số năm sản xuất dưới đáy bình. Mặt sau hơi lõm nhằm tránh cấn vào hông cho binh sĩ khi đeo bình Bi đông. Bình có thể được đeo bằng túi đựng làm bằng vải bạt và cũng để giữ ấm nước. Mẫu trước 1967 viền bằng vải bạt, sau 1967 viền bằng nylon. Theo các binh sĩ từng sử dụng, bi đông này khi đựng nước khi di chuyển sẽ không bị phát tiếng óc ách của nước nên sẽ không gây tiếng động từ đó tránh bị phát hiện
Túi dụng cụ đa năng M1956 E-Tool Cover
Dùng để chứa xẻng đào đa năng gấp lại, bên ngoài có khe cắm để dắt dao lê M8A1
Xem tiếp : Trang bị của lính Mỹ trong chiến tranh Việt Nam – P2