Người Hoa Kiều trong nền kinh tế miền Nam thời Việt Nam Cộng Hòa – VNCH – P5
Người Hoa Kiều trong nền kinh tế miền Nam thời Việt Nam Cộng Hòa không có mặt trong các định chế kinh doanh lớn có tính chiến lược mà chính phủ sở hữu 51% vốn, nắm quyền kiểm soát và quản trị trực tiếp, như Công Ty Điện Lực, Sài Gòn Thủy Cục, Hàng Không Việt Nam
Nhờ viện trợ của Hoa Kỳ người dân Việt Nam, nhất là các viên chức chính quyền và thương gia, những người có đời sống kinh tế khá giã bắt đầu nghĩ tới chuyện tiêu xài, hưởng thụ. Nhiều cơ sở phục vụ giải trí được thành hình với đầy đủ các mục ăn chơi kiểu Hồng Kông : đại tửu lầu Đồng Khánh, Bát Đạt, Arc-en-Ciel, Đại La Thiên, các đại khách sạn Bồng Lai, Lục Quốc. Bình dân hơn là những khu ăn nhậu tại những trục giao lưu lớn tại Sài Gòn – Chợ Lớn do người Hoa làm chủ : La Kai, Chợ Cũ, Đa Kao, Tân Định, Ngã Bảy, Ngã Sáu, Bình Tây, Khổng Tử, v.v…. Các đại bệnh viện Sùng Chính, An Bình, Triều Châu, Phúc Kiến, Quảng Đông… được trang bị tối tân hơn và thay đổi hẳn phương pháp chữa trị : áp dụng Tây y thay vì Đông y. Các bang hội người Hoa kiều miền Nam Việt Nam phát triển mạnh mẽ, tăng cường các hoạt động kinh tế và văn hóa đến các thị xã, thôn xóm xa xôi nhất.
Đời sống vật chất và bộ mặt kinh tế của miền Nam thay đổi hẳn, người ta có thể nói đến phồn vinh, nhất tại các thành phố lớn. Được sự cố vấn của những chuyên viên quốc tế, mặc dầu đang có chiến tranh, tư bản quốc tế tiếp tục đổ vào miền Nam tại những thành phố lớn và các khu công nghiệp Biên Hòa, Thủ Đức, Bình Đông, Bình Tây, Đà Nẵng v.v… Hoa kiều từ nhiều nước Đông Á khác ra vào ào ạt, họ bỏ vốn đầu tư rất nhiều tại Chợ Lớn và vùng phụ cận. Thế lực của người Hoa kiều thời Việt Nam Cộng Hòa trong nước được các đại gia đình tài phiệt Hoa kiều hải ngoại tăng cường, những người này nhắm khai thác và tiêu hóa nguồn viện trợ của Hoa Kỳ và đồng minh đang đổ vào miền Nam một cách ồ ạt.
Tư bản người Việt xuất hiện
Nơi nào có viện trợ của Hoa Kỳ nơi đó dễ làm ăn. Một số gia đình tư bản người Việt cũng bắt đầu xuất hiện trên thương trường sau ngày quân đội Mỹ có mặt. Gia đình Hoàng Kim Quy, được gọi là “vua kẽm gai”, chuyên sản xuất dây kẻm gai và lưới chắn đạn B40. Gia đình Phạm Quang Khai độc quyền chuyên chở xăng dầu và tiếp liệu cho chính quyền miền Nam.
Cũng nhờ có viện trợ của Hoa Kỳ, mức sống của xã hội miền Nam lên cao, nhiều cơ sở sản xuất kiểu Tây phương được thành lập, nhất là ngành y dược. Các công ty y dược lớn bắt đầu xuất hiện để phục thị hiếu ngày càng cao của dân chúng, đa số tập trung tại Sài Gòn-Chợ Lớn. Một số nhân vật thân cận với chính quyền mở bệnh viện như bệnh viện Vì Dân của bà Nguyễn Văn Thiệu, hay thành lập những công ty y dược có tầm vóc như công ty dược phẩm OPV của Nguyễn Cao Thăng, xí nghiệp dược phẩm Trang Hai của bà Nguyễn Thị Hai, viện bào chế Cophavina của dược sĩ Cổ Trung Ngươn, hãng thuốc Sifap của Đào Hữu Giao và Thân trọng Thúy Mai, Laboratoire La Thành của La Thành Nghệ, viện bào chế Béta của Bùi Kim Bảng. Một số dược sĩ, bác sĩ có thực tài cũng xây dựng được nhiều cơ sở nổi tiếng như dầu khuynh diệp của bác sĩ Bùi Kiến Tín, dưỡng đường Công Lý của bác sĩ Trần Đình Đệ, dưỡng đường Duy Tân của bác sĩ Nguyễn Duy Tài, phòng chụp quang tuyến X của bác sĩ Lý Hồng Chương.
Một số gia đình giàu có khác kinh doanh vào ngành dệt như hãng Lysyntex (Liên Phương Kỹ Nghệ Dệt) của bà Nguyễn Thị Giàu, hãng dệt Nam Á và công ty dệt len Vĩnh Thịnh của Phan Bá Thúc, Sakymen (dệt mền len) của Bùi Trác tại cầu Bình Lợi, Tái Thành của bà Đoàn Thị Mỹ (chồng là Huỳnh Văn Thái, người Việt gốc Hoa). Vốn của các cơ sở này ngày càng lớn. Lysyntex lúc ban đầu chỉ vài trăm ngàn, đến năm 1974 được ước tính trên 1,5 tỷ đồng, trước tháng 4-1975 tăng trên 5 tỷ. Tái Thành lúc đầu chỉ có 6 máy dệt bằng gỗ, đến năm 1974 tổng tài sản tăng trên 8 triệu USD. Gia đình họ Cự tại đường Gia Long tập trung vào ngành dệt và may mặc. Người Việt sản xuất tơ sợi nhiều hơn người gốc Hoa (60%) nhưng chỉ phân phối được 30% thành phẩm, số còn lại phải nhờ hệ thống phân phối của người Hoa. Nghề thuộc da cũng được nhiều người Việt tham gia đầu tư như nhà máy da thuộc Bình Lợi của kỹ sư Trần Công Lợi, về sau có thêm hai nhà máy da thuộc khác do những kỹ sư Việt Nam tốt nghiệp tại từ Pháp (Lyon) về quản trị. Nhiều doanh gia khác đầu tư vào ngành nhập cảng xe gắn máy và bánh ngọt (Thái Thạch) như Mai Văn Hàm, hóa chất dệt nhuộm và hương liệu của Nguyễn Công Kha.
Tư nhân Việt Nam hoạt động mạnh trong ngành ấn loát (Sài Gòn ấn quán, Kim Lai ấn quán của Trương Vĩnh Lễ), xuất bản (nhà sách Khai Trí của Nguyễn Hồng Trương), báo chí, rạp hát (Rex, Văn Hoa của êng Thi), phim ảnh (hãng Cosunam của Nguyễn Thị Lợi, Alfa Film của Thái Thúc Nha, hiệu nhiếp ảnh Long Biên). Nói chung, về kinh doanh văn hóa người Việt tự cung ứng đủ nhu cầu trong nước. Chính quyền miền Nam cũng đầu tư rất nhiều vào các cơ sở văn hóa và ấn loát như Bộ Giáo Dục, Bộ Thông Tin và Dân Vận, Bộ Quốc Phòng, v.v… nhưng chỉ nhằm mục đích giáo dục, thông tin và tuyên truyền, chứ không có tính thương mại.
Về sản xuất kỹ nghệ, nhiều công ty do người Việt làm chủ trực tiếp hay qua hình thức cổ phần đã xuất hiện, tuy còn khiêm tốn nhưng rất tích cực. Khu kỹ nghệ Biên Hòa có các công ty : bột giặt Net của ông Hà Dương Bưu (vốn : 75% Việt, 25% Hoa), Vinappro (75% Việt, 25% Nhật) do Cao Văn Đức làm tổng giám đốc với sự hợp tác của các ông Phạm Văn Thơm, Khương Hữu Cân, chuyên sản xuất bộ phận máy cày và xay lúa. Ngoài ra chính quyền miền Nam cũng xuất vốn đầu tư rất nhiều vào một số ngành kỹ nghệ cơ bản như Sicovina (đến năm 1974 vốn tư nhân chỉ còn 4% thay vì 50% như trước, 96% vốn của chính phủ), công ty xi-măng Hà Tiên do ông Dương Mộng Ảo làm tổng giám đốc, các công ty đường Hiệp Hòa, Phan Rang, Khánh Hội (có lúc do ông Nguyễn Văn Hải làm tổng giám đốc), Vikyno của Việt Nam Thương Tín v.v…
Một số tư nhân khác đầu tư vào các ngành dịch vụ. Về ngân hàng có ngân hàng Tín Nghĩa của Nguyễn Tấn Đời, ngân hàng Trung Việt của Phạm Sanh, ngân hàng Nam Đô của Võ Văn Ấng. Về ngành vàng bạc nữ trang như gia đình Nguyễn Thế Tài, Nguyễn Thế Năng, Đức êm, Kim Thành, Kim Hoa tại đường Lê Thánh Tôn. Về khách sạn có khách sạn Catinat của Trần Quí Phong, khách sạn Palace của Nguyễn Gia ên. Nhiều gia đình quí tộc gốc Huế (Nguyễn Phúc, Thân Trọng, Tôn Nữ) đầu tư xây dựng rất nhiều khách sạn, chung cư và cao ốc trên các đường Nguyễn Trung Trực (Ambassy, Emperador), Trần Quí Cáp, Công Lý v.v… để cho người Mỹ thuê. Về hàng không, gia đình Nguyễn Tấn Trung có số cổ phần quan trọng nhất trong Air Việt Nam.
Nhiều gia đình giàu có xuất thân từ chính quyền cũng có mặt trong đủ các ngành kinh doanh như gia đình Trần Trung Dung, Nguyễn Văn Điền. Một số tướng lãnh giàu có cũng xuất hiện trên thương trường nhưng hoạt động kín đáo hơn như gia đình các ông Nguyễn Cao Kỳ, Trần Thiện Khiêm, Hoàng Xuân Lãm, Đặng Văn Quang, Lữ Lan, Ngô Du, Đoàn Văn Quang, Nguyễn Văn Toàn v.v… Đa số kinh doanh trong lãnh vực nhà hàng, tửu lầu, khách sạn, phòng trà ca nhạc, khiêu vũ trường, thầu quân cụ phế thải và khai thác đồn điền.
Nhìn chung, thành phần tư bản Việt Nam có phát triển nhưng sự phát triển đó không do chính khả năng của đương sự, phần lớn đều cậy nhờ không nhiều thì ít vào thế chính quyền. Khi mất nguồn viện trợ của Hoa Kỳ, hoạt động kinh doanh của một số nhân vật bị khựng lại (trường hợp của gia đình Hoàng Kim Qui, Phạm Quang Khai và một số tướng tá khác), nhiều người chuyển nhượng cơ sở hay đổi ngành kinh doanh từ sản xuất sang dịch vụ (khách sạn, giải trí, ăn uống). Chỉ còn lại một số ít công ty cổ phần do vốn tư nhân còn tiếp tục kinh doanh, đa số là những công ty nặc danh cổ phần và trách nhiệm hữu hạn, trong các ngành sản xuất, tài chánh hay y tế như nghề dệt, ấn loát, dịch vụ ngân hàng, bệnh viện, viện bào chế. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa có thành lập một số ngân hàng như Ngân Hàng Phát Triển Kỹ Nghệ, Ngân Hàng Phát Triển Nông Thôn để cho tư nhân vay với lãi suất thấp (6%) để sản xuất, nhưng thực tế rất đáng buồn. Một số doanh nhân Việt gốc Hoa đã mua chuộc gần như toàn bộ nhân viên xét duyệt hồ sơ vay vốn để vay từ 80 đến 90% số vốn dành cho vay. Mặc dầu không cần tiền, họ vẫn lập hồ sơ để vay cho hết số tiền của chính phủ vì họ không muốn doanh nhân Việt mượn tiền để phát triển và cạnh tranh với họ. Có người vay tiền ngân hàng để sau đó cho nông dân vay lại với lãi suất 20%/năm.
Xem lại từ đầu : Người Hoa Kiều trong nền kinh tế miền Nam thời Việt Nam Cộng Hòa VNCH – P1
Xem lại : Người Hoa Kiều trong nền kinh tế miền Nam thời Việt Nam Cộng Hòa VNCH – P4
Xem tiếp : Người Hoa Kiều trong nền kinh tế miền Nam thời Việt Nam Cộng Hòa VNCH – P6
Comments are closed, but trackbacks and pingbacks are open.