Những ngày cuối của quân lực Việt Nam Cộng Hòa : Giám đốc CIA William Colby
Trong những ngày cuối cùng của quân lực Việt Nam Cộng Hòa, họ đã chống đỡ những đợt tấn công liên tiếp của quân Giải Phóng, sự rút bỏ viện trợ của Mỹ và những quyết định sai lầm tai hại của chính quyền Miền Nam đã dẫn đến sự thắng lợi của quân Giải Phóng. Chỉ 1 số ít đơn vị chiến đấu hiệu quả, còn lại đa số đều nhanh chóng rút chạy
Rối loạn từ binh sĩ tới dân chúng
Khi nhìn lại tình hình an ninh ở các tỉnh phía bắc VNCH, người ta nhớ rằng cho đến đầu tháng 3/1975, tình hình ở Quảng Ngãi bất lợi hơn cho quân VNCH vì tại đây Quân Giải phóng (QGP) đã lập được một con đường mới chạy ra tới gần bờ biển.
Ngày 9/3/1975, QGP mở đợt tấn công lớn nhưng phía quân VNCH không coi đó là cuộc tổng tấn công. Lần này, QGP từ trên núi đánh vào các đơn vị của sư đoàn 1, của Liên đoàn 15 BĐQ và của sư đoàn TQLC. Lúc ấy, vùng I có 35.000 ĐPQ. Các đơn vị này được chiến xa và thiết vận xa yểm trợ đắc lực nên đã tạm thời chặn được các cuộc tiến công.
Tuy vậy, họ chịu một thất bại lớn. Hai trung đoàn của sư đoàn 2 QGP tấn công vào quận lỵ Tiên Phước thuộc tỉnh Quảng Tín. Sau 12 giờ giao tranh, QGP chiếm được quận lỵ Tiên Phước. Những ngày sau đó, sư đoàn 2 của VNCH và một Liên đoàn BĐQ mở cuộc phản công để lấy lại quận Tiên Phước nhưng thất bại.
Như vậy, khi Thiệu gọi tướng Trưởng về họp tại Sài Gòn ngày 13/3, báo cáo của tướng Trưởng vẫn lạc quan, mặc dù mất quận Tiên Phước. Đó là về khía cạnh chiến thuật. Nhưng về chiến lược, tướng Trưởng bày tỏ sự lo ngại cho số phận của Huế và Đà Nẵng nếu QGP đánh lớn mà phía VNCH lại không có sư đoàn Dù nữa (lúc này, Thiệu đã cho tướng Trưởng biết ý định rút sư đoàn Dù về Sài Gòn). Trước sự lo ngại của tướng Trưởng, Thiệu vẫn giữ ý định kéo sư đoàn Dù về Sài Gòn.
Trở lại miền Trung, tướng Trưởng đành phải cho sư đoàn TQLC rút về phía Đà Nẵng để thay thế sư đoàn Dù. Sự chuyển quân này tuy gây ra một khoảng trống lớn trong hệ thống phòng thủ Huế nhưng chưa gây ra ngay biến cố gì nguy hại. Sau cuộc giao tranh vào mùa hè năm 1972, mặc dù tỉnh Quảng Trị bị bom đạn tàn phá nhưng sau đó, dân chúng đã trở về đông đảo làm ăn và canh tác. Dân số trong tỉnh này sau năm 1972 lên tới 280.000 người.
Khi thấy sư đoàn TQLC rút đi, chừng 20.000 thường dân lo ngại nên đã bỏ về Huế, nhưng vì đó mới chỉ là một tỷ lệ nhỏ nên chưa gây ra hỗn loạn. Trong khoảng thời gian này, người dân miền Trung tuy có theo dõi tình hình cao nguyên nhưng chắc chắn là họ không nghĩ tới một việc Huế hay Đà Nẵng sụp đổ nhanh như vậy.
Ngày 17/3, Trần Thiện Khiêm tới Đà Nẵng cùng với nhiều tổng trưởng của chính phủ VNCH do Khiêm làm Thủ tướng. Trong khi các tổng trưởng và các tỉnh trưởng ngồi chờ ở phòng hành quân thì Khiêm nói chuyện riêng với tướng Trưởng trong vòng 40 phút và vấn đề thảo luận là việc trợ giúp những người di cư. Khiêm cho biết là sẽ bỏ Quảng Trị nhưng không nói tới việc từ bỏ cả Huế.
Ngày 17/3 cũng là ngày Hà Nội họp bàn quyết định mở một mặt trận thứ hai ở miền Trung, kế hoạch là cắt quốc lộ 1 từ Huế đến Đà Nẵng và tiến quân thật mau từ miền núi xuống phía bờ biển.
Lúc 8h sáng 18/3, tất cả công chức và nhân viên hành chánh VNCH tại Quảng Trị khăn gói kéo nhau về Huế mà không hề cho dân chúng biết là họ bị chính quyền bỏ lại. Cũng như trường hợp bỏ Pleiku, sự ra đi đột ngột của những kẻ cầm quyền làm cho dân chúng lo ngại. Ước lượng có tới 130.000 người trước đây từng di cư vào năm 1972, nay kéo nhau di cư tiếp về Huế.
Ngày 19/3, QGP vượt qua sông Thạch Hãn vào giải phóng tỉnh Quảng Trị mà không gặp sức kháng cự nào. Điều đáng ngại nhất là những người dân di cư đến đâu thì gieo rối loạn tới đó và không bao lâu thì hỗn loạn đã lan ra khắp miền Trung.
Đêm hôm ấy, Thiệu loan báo rằng QGP đã lại mở một cuộc tổng tấn công mới ở miền Trung. Sau lời loan báo ấy, những gì đã xảy ra tại Pleiku và Quảng Trị lại diễn ra tại Huế.
Chung cuộc những mệnh lệnh kỳ quái và ngược nhau của Thiệu cùng với nỗi lo sợ của các người binh sĩ VNCH rằng gia đình của họ có thể bị bỏ rơi đã đưa miền Trung tới thảm họa còn bi kịch hơn cuộc rút quân ở cao nguyên nữa.
Sau khi mất Đà Nẵng, kể như quân lực VNCH đã mất hơn phân nửa lực lượng. Đáng buồn hơn nữa là khi sự tan rã xảy ra tại mặt trận miền Trung thì chỉ riêng tại Quảng Trị, Huế và Đà Nẵng, quân lực VNCH đã có sẵn kho lương thực và đạn dược đủ để chiến đấu trong vòng ít ra là một năm.
Trước khi xem về mặt trận duyên hải (chủ yếu là Nha Trang), chúng ta hãy xem sự tổn hại của quân lực VNCH sau hai cuộc triệt thoái tai hại, đến mức nào.
Lúc QGP giải phóng được miền Trung thì quốc hội của Mỹ còn đang bận nghỉ nhiều ngày của Lễ Phục Sinh, còn Tổng thống Ford thì bận giải trí với môn golf tại thành phố hoa lệ Palm Spring ở phía nam tiểu bang California. Tuy vậy, cũng còn có một chút an ủi cho VNCH vì Tổng thống Ford gửi hai nhân vật quan trọng tới nhận định tình hình Nam Việt Nam. Đó là tham mưu trưởng của Lục quân Mỹ và một người được coi là chuyên gia tình báo là tướng Frederick C. Weyand.
Phái đoàn Weyand đến Sài Thành ngày 27/3/1975 và lập tức tìm hiểu tình thế lúc ấy. Tin tức do cơ quan CIA cho ông ta hay không phải là thứ tin tức khích lệ. Theo bản tường trình của CIA tại Sài Gòn thì chừng 150.000 binh sĩ chính quy và nhân dân tự vệ ở nửa phía bắc của VNCH đã thất bại, bị bỏ rơi hoặc bị tiêu diệt.
Về các đơn vị lục quân của VNCH dàn ra tại vùng I (miền Trung), 3 liên đoàn BĐQ, toàn thể sư đoàn 1, hai phần ba của sư đoàn 2 và sư đoàn 3 Bộ binh và một phần ba của sư đoàn TQLC không còn tồn tại nữa.
Tại vùng II (Quân đoàn II VNCH tại cao nguyên), phần lớn của sư đoàn 23 Bộ binh và 5 Liên đoàn BĐQ đã bị diệt, cùng với hai trong 4 trung đoàn của sư đoàn 22 Bộ binh (sư đoàn này được đặc biệt tăng cường thêm một trung đoàn, trong khi hầu hết các sư đoàn bộ binh khác của lục quân Nam Việt Nam chỉ có 3 trung đoàn). 12 tỉnh và một số chiến cụ trị giá tới một tỷ Mỹ kim, trong số đó, có 400 máy bay và trực thăng đã rơi vào tay QGP.
Tai hại hơn nữa là toàn thể cơ cấu tình báo của VNCH ở phía bắc đã bị tiêu diệt, nên không còn khả năng theo dõi cuộc tiến quân của QGP nữa.
Phần còn lại của lãnh thổ VNCH từ đây chỉ còn có thể được bảo vệ bởi các sư đoàn thuộc Quân đoàn III và Quân đoàn IV, 3 lữ đoàn Dù rút từ miền Trung về và những binh sĩ nào còn chiến đấu được trong số 40.000 binh sĩ chính qui và không chính quy rút được từ miền Trung về.
Nhưng ngay cả các lực lượng còn lại vừa kể cũng đang phải đối phó với áp lực nặng của QGP. Ba sư đoàn của Quân đoàn III đang giao tranh nặng với QGP ở phía bắc của Sài Gòn, trong khi 3 sư đoàn của Quân khu IV phải lo bảo vệ quốc lộ 4 là con đường huyết mạch cho miền Nam, nối liền Sài Gòn với vựa lúa vùng đồng bằng sông Cửu Long. Một trong 3 lữ đoàn của sư đoàn Dù đang bị cầm chân tại Nha Trang, do đó, nhu cầu phải có thêm lực lượng trừ bị chiến lược cho miền Nam là nhu cầu sinh tử.
Phái đoàn Weyand rất lo ngại khi thấy rằng trước khi phái đoàn tới Sài Gòn thì Bộ Tổng tham mưu của Nam Việt Nam đã không có hành động gì để tổ chức lại các đơn vị quân đội rút được từ miền Trung về Sài Gòn. Thực ra thì Bộ Tổng tham mưu ấy cũng không nắm vững được rằng có những đơn vị nào đã về được tới Sài Gòn, đang có mặt tại đâu, cần được tái trang bị những gì để có thể chiến đấu trở lại.
Bị phía người Mỹ thúc đẩy quá, rốt cuộc, Tổng cục tiếp vận của VNCH mới đưa ra một kế hoạch vào ngày 27/3/1975. Nhưng kế hoạch này bị phái đoàn Weyard bác bỏ ngay vì “không tưởng”. Kế hoạch ấy dựa trên điều giả tưởng của quốc hội Mỹ sẽ cấp thêm nhiều ngân khoản và kế hoạch lại không dự trù một thời biểu nào để chuẩn bị một số đơn vị mới trước ngày 15/6/1975 và kế hoạch cũng không đề ra một quan niệm nào để điều động và sử dụng các đơn vị mới ấy.
Thiệu và đại sứ Mỹ tiếp tục “ngủ mơ”
Thất vọng về Bộ Tổng tham mưu của VNCH, phía Mỹ quyết định trực tiếp lo việc chỉnh đốn lại quân lực VNCH. Tướng Homer Smith là tùy viên quân sự của sứ quán Mỹ tại Sài Gòn tự đảm nhiệm vai trò cố vấn. Ông ta ra lệnh cho phòng tùy viên quân sự của ông ta lập kế hoạch huấn luyện và trang bị cho một số đơn vị mới của Nam Việt Nam ở cấp tiểu đoàn.
Kế hoạch này chia làm 4 giai đoạn. Giai đoạn 1, cũng là giai đoạn quan trọng nhất, là số chiến cụ có sẵn tại Nam Việt Nam hoặc đang trên đường từ Mỹ tới sẽ được dùng để trang bị cho 18 tiểu đoàn Bộ binh và cho 3 pháo đội. Tất cả những đơn vị này sẽ được dàn ra chậm trễ nhất là trước ngày 19/4/1975.
Trong ba giai đoạn còn lại, tính từ 20/5 – 30/9/1975, phải lập xong 4 sư đoàn Bộ binh, 4 sư đoàn BĐQ và 27 trung đoàn ĐPQ. Ba giai đoạn này sẽ tùy thuộc khá nhiều vào sự thành công trong kế hoạch phòng thủ của Quân khu III và Quân khu IV, cũng như vào viện trợ bổ túc của nước Mỹ và việc Mỹ rút bỏ chi viện đã gần như báo hiệu những ngày cuối cùng của quân lực Việt Nam Cộng Hòa
Xem tiếp : Quân lực Việt Nam Cộng Hòa những ngày cuối cùng : Giám đốc CIA William Colby – P2