Trung Quốc âm mưu đánh chiếm quần đảo Trường Sa năm 1988
Sau cuộc xung đột biên giới Việt Trung năm 1979 và phải lui quân, chính quyền Bắc Kinh vẫn tiếp tục nhiều hoạt động trên biển đông và Trung Quốc âm mưu đánh chiếm quần đảo Trường Sa năm 1988
Tiếp tục nuôi dã tâm sau chiến tranh xâm lược 1979
Sau khi cuộc chiến tranh xâm lược nước ta hồi tháng 02 năm 1979 kết thúc, Trung Quốc vẫn tiếp tục thực hiện dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, nhưng lần này Trung Quốc âm mưu đánh chiếm quần đảo Trường Sa nằm trên Biển Đông.
Mặc dù cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc đã kết thúc vào tháng 3/1979, nhưng sau đó, nhà cầm quyền Bắc Kinh đã nêu ra những yêu sách ngang ngược trong các vòng đàm phán biên giới, đồng thời tiếp tục tiến hành một cuộc chiến tranh lấn chiếm dải biên giới phía bắc của nước ta, khiến xung đột vũ trang vẫn liên tục xảy ra sau đó trên tuyến biên giới Việt-Trung trong suốt thập niên 80 của thế kỷ trước.
Trong hai vòng đàm phán năm 1979, Trung Quốc đã đưa ra rất nhiều yêu sách ngang ngược, đặc biệt là đòi chúng ta phải thừa nhận chủ quyền phi pháp của nước này đối với các quần đảo Hoàng Sa (họ gọi là Tây Sa) và Trường Sa (Nam Sa), đòi Việt Nam phải rút quân khỏi Quần đảo Trường Sa. Sau khi không đạt được mục đích phi lý của mình, nhà cầm quyền Bắc Kinh đã đơn phương bỏ vòng đàm phán thứ 3 về phân định biên giới, vào đầu năm 1980. Sau đó, Việt Nam nhiều lần đề nghị nối lại các cuộc đàm phán đã bị Trung Quốc đơn phương bỏ dở, nhưng Trung Quốc vẫn một mực khước từ, khiến đàm phán giữa hai nước gián đoạn trong suốt một thời gian dài
Bên cạnh việc từ chối đàm phán, nhà cầm quyền Bắc Kinh tiếp tục chủ trương gây ra những căng thẳng ở biên giới trên bộ [cho đến năm 1988] để thu hút lực lượng của ta trên tuyến biên giới phía bắc, Trung Quốc âm mưu đánh chiếm quần đảo Trường Sa năm 1988, nhằm độc chiếm Biển Đông.
Trung Quốc ra sức tạo xung đột trên biển Đông
Việc ngay trong vòng đàm phán thứ nhất, Trung Quốc đã đặt điều kiện tiên quyết là Việt Nam phải từ bỏ chủ quyền đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã bộc lộ rõ dã tâm chiếm đoạt hoàn toàn Biển Đông của nhà cầm quyền Bắc Kinh. Song song với những luận điệu hết sức ngang ngược, chính quyền Bắc Kinh cũng chủ động tiến hành các hoạt động gây rối trên biển, đồng thời ráo riết thực hiện công tác chuẩn bị để sử dụng vũ lực chiếm đoạt quần đảo Trường Sa.
Trước tiên, cũng giống như những thủ đoạn hiện Trung Quốc vẫn đang thực hiện, nhà cầm quyền Bắc Kinh chủ trương đưa ra các hành động đơn phương tuyên bố chú quyền đối với quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, nhằm “biến các vùng biển không tranh chấp thuộc chủ quyền của nước khác, thành vùng biển có tranh chấp”. Ngày 23/7/1979, Tổng cục Hàng không Dân dụng Trung Quốc công bố một thông cáo quy định “bốn vùng nguy hiểm” ở khu vực đảo Hải Nam, trong đó có vùng trời của quần đảo Hoàng Sa và buộc máy bay dân dụng của các nước phải bay qua đây vào những giờ do nước này quy định. Tiếp theo, vào ngày 01/9/1979, Bắc Kinh lại công bố bản quy định dành cho máy bay dân dụng nước ngoài, khi bay vào không phận của Trung Quốc, bao gồm cả không phận quần đảo Hoàng Sa. Ngoài ra, Bắc Kinh còn tăng cường xây dựng trái phép các cảng, sân bay và các công trình phòng thủ ở quần đảo Hoàng Sa. Mục đích của những hành động này của nhà cầm quyền Bắc Kinh là nhằm đánh lừa dư luận, khiến cộng đồng quốc tế lầm tưởng Trung Quốc có chủ quyền đối với vùng biển mà họ đã tuyên bố, che giấu sự yếu thế về các cứ liệu lịch sử và chứng cứ hiện thực về chủ quyền pháp lý.
Trung Quốc đẩy nhanh việc xây dựng lực lượng tác chiến trên Biển Đông
Về mặt quân sự, vào cuối năm 1979, Trung Quốc thành lập Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến (PLANMC), trực thuộc Quân chủng hải quân (PLAN), sau đó, thành lập lữ đoàn đặc biệt đầu tiên, chuyên tác chiến đổ bộ đánh chiếm đảo và đổ bộ lên đất liền, là Lữ đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến vào tháng 5/1980.
Song song với đó, Bộ quốc phòng nước này cũng bắt đầu triển khai các máy bay ném bom chiến lược H-6 của lực lượng Không quân Hải quân Trung Quốc, thực hiện cuộc tuần tra trái phép trên không đầu tiên ở quần đảo Trường Sa, vào tháng 1/1980.Cùng với đó, nhiều tàu ngư lôi, tàu pháo và hàng nghìn tàu cá vũ trang của Trung Quốc liên tục xâm phạm lãnh hải của Việt Nam trong vịnh Bắc Bộ, đỉnh điểm là vào năm 1981. Đồng thời, Bộ quốc phòng Trung Quốc còn di chuyển trụ sở Bộ Tư lệnh Hạm đội Nam Hải [phụ trách tác chiến ở khu vực Biển Đông] từ Quảng Châu xuống Trạm Giang; xây dựng, mở rộng hàng loạt các cảng quân sự; biên chế cho hạm đội này những trang bị hiện đại nhất, trong đó có các tàu chiến hiện đại mang tên lửa, để tăng cường sức mạnh tác chiến cho Hạm đội này.
Năm 1982, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Trung Quốc Dương Đắc Chí (nguyên là tư lệnh cánh quân Vân Nam trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam năm 1979) đã đến thăm trái phép quần đảo Hoàng Sa. Những hành động này của Trung Quốc đã cho thấy, Bắc Kinh đã thực hiện chiến lược “leo thang căng thẳng từ từ trên Biển Đông”, “bình thường hóa” sự hiện diện quân sự trên Biển Đông; cùng với đó là nỗ lực xây dựng lực lượng hải quân mạnh mẽ, nhằm từng bước thực hiện chiến lược xâm chiếm Quần đảo Trường Sa của Việt Nam vào năm 1988.
Trung Quốc gây xung đột trên biển Đông
Từ năm 1986, tình hình khu vực biển quần đảo Trường Sa có những diễn biến mới cực kỳ phức tạp, do một số quốc gia Đông Nam Á và Trung Quốc bắt đầu đẩy mạnh các hoạt động tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông. Năm 1986, Philippines đẩy mạnh việc vận chuyển xây dựng công trình trên các đảo của họ đóng giữ trái phép là đảo Song Tử Đông, đảo Thị Tứ, đảo Loại Ta, Panata. Cũng trong năm đó, Malaysia cũng bí mật đưa lực lượng ra chiếm đóng bãi đá Kỳ Vân ở phía nam Trường Sa và đến tháng 1/1987, Malaysia chiếm đóng thêm bãi đá Kiêu Ngựa.
Về phía Trung Quốc, bắt đầu từ cuối tháng 12/1986, Trung Quốc cho máy bay và tàu thuyền có cả tàu chiến hoạt động trinh sát, thăm dò từ khu vực đảo Song Tử Tây đến khu vực đảo Thuyền Chài. Ngày 15/4/1987, Trung Quốc cáo buộc quân đội Việt Nam chiếm đóng đảo đá Ba Tiêu thuộc quần đảo Trường Sa, nhằm “chiếm hữu thềm lục địa gần đó và mở đường cho việc khai thác dầu trong tương lai”. Bắc Kinh đòi chúng ta phải rút khỏi Ba Tiêu và 9 hòn đảo khác và tuyên bố “bảo lưu quyền thu hồi các đảo này vào một thời điểm thích hợp”. Từ ngày 15/5 đến ngày 6/6/1987, hải quân Trung Quốc tổ chức một cuộc diễn tập lớn và triển khai các cuộc nghiên cứu hải dương học trá hình ở khu vực quần đảo Trường Sa. Giữa tháng 10, tháng 11/1987, Trung Quốc lại tiếp tục đưa tàu nghiên cứu Hải Dương 4 và một số tàu chiến đi qua các đảo An Bang, Thuyền Chài, Trường Sa Đông, Trưởng Sa, Song Tử Tây; có lúc các tàu này vào sát đảo của ta khoảng 1 hải lý.
Ta nhận định hoạt động diễn tập quân sự bất thường và triển khai các cuộc nghiên cứu hải dương học trá hình ở khu vực quần đảo Trường Sa của Trung Quốc là nhằm mục đích thăm dò luồng lạch, và luyện tập phương án chuẩn bị cho hành động xâm lược các đảo, đá trên biển Đông. Rất có khả năng Trung Quốc sẽ dùng lực lượng hải quân chiếm đóng thêm một số đảo khác, do đó, Việt Nam sẽ phải nhanh chóng đưa lực lượng công binh ra các đảo để chốt giữ.
Đầu năm 1988, ở vùng biển phía Bắc, Trung Quốc triển khai thêm khu vực khai thác dầu khí, tăng cường tàu cá vào quấy nhiễu ở vịnh Bắc Bộ, sử dụng không quân và hải quân gây hấn, chủ động khiêu khích ở Hoàng Sa, gây nên tình hình căng thẳng ở khu vực này, để căng kéo lực lượng của ta trên khắp các vùng biển, nhằm rảnh tay chiếm đoạt các đảo ở Trường Sa. Trước bối cảnh tình hình Trường Sa đột nhiên trở nên căng thẳng, ngày 9/1/1988, Đảng ủy Quân chủng Hải quân họp nhận định: Trung Quốc sẽ tiến hành các hoạt động quân sự tranh chấp chủ quyền hải đảo, chiếm một số bãi san hô nổi hoặc chìm khi nước lên, xen kẽ với các đảo của ta. Trong khi đó, các nước khác có thể nhân cơ hội này chiếm đóng một số đảo nằm giữa Kỳ Vân và Ri-gân. Tham vọng của các nước này đang trở thành nguy cơ trực tiếp đe dọa Việt Nam và các nước trong khu vực, thậm chí có thể xảy ra xung đột quân sự trên biển.
Tác giả : Thiên Nam – báo Đất Việt
Xem tiếp : Trường Sa 1988 : Trung Quốc tạo dựng xung đột biển Đông