Thảm sát Mỹ Lai và sự thật phía sau trong chiến tranh Việt Nam – The Truth Behind My Lai massacre 1968 – P2
Đại úy Medina bắt đầu che đậy Thảm sát Mỹ Lai và sự thật phía sau trong chiến tranh Việt Nam – My Lai massacre and The Truth Behind in Vietnam war 1968 bằng cách đưa ra tuyên bố giả mạo rằng ngôi làng thực sự có đầy Việt Cộng khi cuộc tấn công bắt đầu, nhưng tất cả họ đã bỏ trốn, thế nên chỉ còn lại phụ nữ và trẻ em
Trung đội 1 của Calley, và một phần của Trung đội 2, do Trung úy Stephen Brooks chỉ huy, đã đáp xuống Mỹ Lai trên những chiếc trực thăng đầu tiên và nhanh chóng rà soát khu vực. Dù không gặp bất kỳ hỏa lực nào của kẻ thù, luồng hơi từ súng máy và hỏa tiễn mà trực thăng liên tục bắn vào các túp lều gần đó khiến lính Mỹ cảm giác rằng họ đang bị tấn công. Calley và Brooks dẫn người của họ vào làng sau khi đợt trực thăng thứ hai đưa phần còn lại của đại đội đến nơi.
Khi di chuyển sâu hơn vào Mỹ Lai, các trung đội bắt đầu chia thành các nhóm nhỏ hơn không có sĩ quan giám sát liên tục. Hai binh nhì, Dennis Conti và Paul Meadlo, đã đứng canh giữ những thường dân mà họ gặp phải cho đến khi một sĩ quan đến nơi để đánh giá nhóm người này. Khi Trung úy Calley tìm thấy họ, anh ta lạnh lùng ra lệnh cho Conti và Meadlo “xử chúng” rồi bỏ đi.
Dưới áp lực của Đại úy Medina nhằm nhanh chóng hoàn thành chiến dịch ở Mỹ Lai, Trung úy Calley trở lại vài phút sau đó và hỏi tại sao họ không “chăm sóc” dân làng. Binh nhì Meadlo trả lời rằng mình đang làm theo lệnh của chỉ huy, nhưng Trung úy Calley nhấn mạnh rằng ông muốn dân làng bị giết. Buộc cấp dưới của mình phải nổ súng, Trung úy Calley thực sự đang ra lệnh cho họ bắn dân làng.
Meadlo vâng lời, trong khi Conti quan sát quanh những lùm cây, canh chừng nguy hiểm. Sau khi bắn được ba phát đạn, Meadlo òa lên khóc mà nói với Conti: “Nếu họ phải bị giết, tôi không thể là kẻ làm được việc ấy. Hãy để anh ta làm đi.”
Tiếp tục tiến vào Mỹ Lai, Trung úy Calley, cùng với Binh nhì Conti, Binh nhì Meadlo và Hạ sĩ Ronald Grzesik, đến một mương thoát nước nơi các thành viên khác của đại đội đang canh giữ khoảng 50 dân làng, bao gồm cả phụ nữ, trẻ nhỏ và một nhà sư. Khi nhà sư không thể trả lời câu hỏi của Calley Việt Cộng đã đi đâu, ông bị đẩy xuống mương và bị Calley bắn chết. Sau khi những người lính khác mang thêm người Việt đến mương, Calley tiếp tục ra lệnh cho người của mình bắn họ.
Thảm sát Mỹ Lai – My Lai massacre cuối cùng kết thúc khi một phi đoàn do Chuẩn úy Hugh Thompson chỉ huy đến can thiệp. Tức giận vì những vụ giết người mà ông quan sát được từ chiếc trực thăng trinh sát của mình, Thompson đã cho hạ cánh khi thấy những người lính di chuyển về phía một nhóm dân làng đang trốn trong hầm ngầm. Khi rời khỏi trực thăng, Thompson nhờ tay súng Lawrence Colburn yểm trợ mình và cho ông này quyền bắn vào thành viên Đại đội Charlie nếu họ nổ súng vào những người Việt Nam trong hầm.
Sau khi đối chất với Calley, người bảo Thompson rằng “đây không phải là việc của anh”, Thompson đã thuyết phục các phi công trên những chiếc trực thăng khác hạ cánh và sơ tán dân thường. Các cuộc gọi vô tuyến của ông cuối cùng đã thu hút sự chú ý của Trung tá Frank Barker, người đã ra lệnh cho Đại úy Medina phải ngừng ngay việc giết chóc.
Thất bại của lãnh đạo vẫn tiếp tục sau khi vụ nổ súng dừng lại. Khi Hugh Thompson báo cáo về lượng tử vong dân sự rất lớn xảy ra tại Mỹ Lai, chỉ huy của ông, Thiếu tá Fred Watke, đã hạ thấp con số trong báo cáo vụ Thảm sát Mỹ Lai – My Lai massacre, bởi niềm tin rằng phi công này không đủ kinh nghiệm để biết được thường dân Việt Nam đã thiệt mạng như thế nào. Khi nộp báo cáo về cho trợ lý chỉ huy sư đoàn, Chuẩn tướng George Young, Watke nói rằng chỉ có 25 người không liên quan đã thiệt mạng, và tập trung nhiều hơn vào cuộc chạm trán giữa Thompson và Calley. Chính việc này cho phép Trung tá Barker sau đó tuyên bố rằng không có bằng chứng nào hỗ trợ cho lời khai của Thompson, và cho rằng thường dân bị chết thực ra là vì kẹt giữa hai làn đạn.
Đại úy Medina bắt đầu che đậy bằng cách đưa ra tuyên bố giả mạo rằng ngôi làng thực sự có đầy Việt Cộng khi cuộc tấn công bắt đầu, nhưng tất cả họ đã bỏ trốn, thế nên chỉ còn lại phụ nữ và trẻ em. Khi được hỏi về sự chênh lệch giữa số thương vong cao nhưng lượng vũ khí thu được lại quá thấp (Đại đội Charlie chỉ tìm thấy ba khẩu súng trường M1 Garand cũ), Đại úy Medina liền nói dối chỉ huy sư đoàn, Tướng Koster, rằng pháo binh đã giết chết khoảng 20 đến 28 thường dân.
Báo cáo sai lệch của Medina cho Tướng Koster đã khởi đầu cho nỗ lực mà Trung tá Barker và chỉ huy lữ đoàn, Trung tá Oran Henderson, khởi xướng nhằm che giấu vụ thảm sát.
Tham vọng của các sĩ quan cấp cao trong Sư đoàn Bộ binh 23 đã góp phần khiến vụ thảm sát bị giấu kín trước cơ quan điều tra. Tướng Koster xem vị trí chỉ huy của mình chỉ là điểm dừng tạm thời trên con đường binh nghiệp – chỉ huy một sư đoàn tác chiến chỉ là một ô kinh nghiệm phải đánh dấu trong lý lịch. Sĩ quan phụ trách công vụ sư đoàn, Trung tá Charles Anistranski, nhớ lại việc Tướng Koster đã rất tức giận sau vụ Mỹ Lai bởi số lượng chính thức là 128 lính Việt Cộng bị giết, nhưng chỉ có ba khẩu súng được thu giữ, đã đánh giá khả năng lãnh đạo của Koster là yếu kém.
Trong khi Tướng Koster hiếm khi tương tác với cấp dưới của mình, ông ta lại thường xuyên nhắc nhở họ tuân theo các quy tắc giao chiến, và luôn đánh đồng số lượng vũ khí thu được với số lượng kẻ thù bị giết. Mặc dù ông nói với cấp dưới rằng họ không thể đơn giản bắn chết toàn bộ dân của một ngôi làng để tăng số lượng thương vong(của kẻ thù), Tướng Koster cũng không yêu cầu phải biết chính xác số lượng người chết tại Mỹ Lai.
Khi trợ lý chỉ huy sư đoàn, George Young, thông báo cho Tướng Koster về cáo buộc của Hugh Thompson rằng những người dưới quyền Medina đã giết thường dân tại Mỹ Lai, cả hai đều tập trung vào cuộc đối đầu của vị phi công với Trung úy Calley. Khi tập trung vào cuộc cải vã giữa Thompson và Calley, Tướng Young và Tướng Koster đã bỏ qua các chỉ thị của Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Mỹ tại Việt Nam rằng các cáo buộc về tội ác chiến tranh cần phải được chuyển đến các nhân viên đánh giá tại Sài Gòn.
Khát vọng sự nghiệp cũng là một động lực của Trung tá Barker, người chưa bao giờ có kinh nghiệm chỉ huy chiến đấu trên chiến trường. Hiểu rằng kinh nghiệm chỉ huy tiểu đoàn là cần thiết để giúp bản thân thăng lên cấp đại tá, ông ta nhận thấy chiến dịch hiện tại, trong đó cuộc tấn công vào Mỹ Lai chỉ là một phần, là cơ hội tốt nhất của mình. Muốn ghi điểm nhờ thành công chống lại Việt Cộng, ông ta thúc giục Đại đội Charlie phải mạnh tay trong cuộc tấn công vào Mỹ Lai để rồi sau đó thừa nhận rằng những lời hô hào của mình có thể đã góp phần vào suy nghĩ sai lầm rằng lính của Medina nên giết tất cả mọi người trong làng.
Dù nhấn mạnh việc cần phải quyết liệt trong đợt tấn công ấy, cả Trung tá Barker và Đại úy Medina đều khônghướng dẫn cách đối xử với thường dân. Khi được phân công điều tra hành động của thuộc cấp, Trung tá Barker đã viết một bản báo cáo hời hợt nhằm xoá tội cho những hành động sai trái của Đại đội Charlie.
Vụ thảm sát Mỹ Lai – My Lai massacre cuối cùng đã được công khai một năm sau đó. Một số sĩ quan đã bị đưa ra xét xử vào năm 1971, nhưng chỉ có duy nhất Trung úy Calley bị kết án. Anh ta được ra tù vào năm 1974.
Xem lại : Thảm sát Mỹ Lai trong chiến tranh Việt Nam – My Lai massacre in Vietnam war – P1
Tác giả Christopher J. Levesque là giảng viên tại Đại học Pensacola
Người dịch : Nguyễn Thị Kim Phụng
Nguồn : The Truth Behind My Lai đăng tại The New York Times, 16/03/2018.
https://www.history.com/topics/vietnam-war/my-lai-massacre-1
http s://armyhistory.org/my-lai/