
Khi Đồng Minh Tháo Chạy – When the Allies ran away : Nguyễn Tiến Hưng – P29
Tài liệu nghiên cứu về chế độ Việt Nam Cộng Hòa miền Nam : “Khi đồng minh tháo chạy” của tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng – “When the Allies ran away ” book by Nguyen Tien Hung – Phần 29
Năm 1973, quân viện là 2,2 tỷ, bây giờ trong thực tế còn có 500 triệu! Ấy là nếu Quốc Hội chuẩn chi 1, 126 tỷ. Sau khi nghe tôi phúc trình, ông Thiệu lặng thinh, suy tư. Ông mím môi, chắp tay sau lưng bước ra khỏi phòng, lữg thững đi về phía căn lầu riêng của gia đình ông. Ánh mắt ông đăm chiêu, tư lự.
Cái nhục của kẻ đi cầu xin
Đến tháng 4.1974, tức là đúng một năm trước khi sụp đổ, tình hình tiếp liệu trở nên nguy ngập. Dù Đại Sứ Martin cố trấn an. Ông Thiệu vô cùng lo lắng. Ông có đầy đủ thông tin từ Tướng Murray, Bộ Tổng Tham Mưu và nhiều nguồn khác chứ đâu chỉ có nghe lời khích lệ từ phía ông Martin. Bề ngoài thì ông tỏ ra bình tĩnh và vẫn cứ tranh thủ vì đâu còn sự lựa chọn nào khác. Không nhẽ biết sắp bị cắt hết viện trợ thì buông xuôi. Bởi vậy, ông nhờ cậy Đại Sứ Martin đồng thời yêu cầu các phái đoàn Quốc Hội Việt Nam Cộng Hòa sang cầu viện tại Washington. Mặt khác, ông có thái độ cởi mở hơn với báo chí Mỹ và cho phỏng vấn nhiều hơn. Cuối 1974 và đầu 1975, ông tiếp đón một số Nghị Sĩ, Dân Biểu Mỹ để yêu cầu họ khuyến cáo cho Quốc Hội nương tay. Nhưng ông chỉ luôn luôn biện luận trên căn bản là hai nước đã chiến đấu với nhau trong hai mươi năm và đã có tới năm Tổng Thống Mỹ ủng hộ Việt Nam Cộng Hòa. Ông hoàn toàn không đả động tới những cam kết của Tổng Thống Nixon để đổi lấy Hiệp Định Paris.
Đầu tháng Năm 1974, Tổng Thống Thiệu cử Đại Tướng Viên đi Mỹ cầu viện. Ông mang theo một danh sách nhu cầu cấp bách về quân dụng cho Việt Nam Cộng Hòa: Trọng pháo 105 ly và 155 ly, đạn dược, dụng cụ truyền tin, và ngân khoản để duy trì khả năng chiến đấu. Tới Ngũ Giác Đài, Tướng Viên gặp Tướng Abrams, người thay Tướng Westmoreland làm Tư Lệnh Quân Đội Mỹ lại Việt Nam. Lúc đó ông đã lên chứ Tham Mưu Trưởng Lục Quân. Abrams cho biết vấn đề viện trợ khó khăn không do Ngũ Giác Đài mà là do Quốc Hội. Sau đó ông vào gặp Tổng Trưởng Quốc Phòng Schlesinger và trình bày nhu cầu của Quân Lực Cộng Hòa trước ba mươi sĩ quan cao cấp, kể cả các Tướng lãnh thuộc Bộ Tham Mưu Liên Quân. Tất cả đều hứa hẹn hết sức ủng hộ. Schlesinger hứa sẽ giúp, nhưng giải thích rằng quyết định cuối cùng là do Quốc Hội.
Lúc ông Viên còn đang ở Mỹ, Tổng Thống Thiệu bảo chúng tôi sang Washington thẩm định tình hình viện trợ kinh tế và cũng để ý theo dõi vấn đề viện trợ quân sự. Trước khi đi, Đại Sứ Martin dặn tôi cố xin gặp Nghị Sĩ Kennedy, người lãnh đạo phong trào cắt xén viện trợ của Miền Nam. Vừa mới đây, ngày sáu tháng Năm 1974, Thượng Viện đã bỏ phiếu thuận 43-38 để kèm vào Chuẩn chi cho Ngân Sách Bộ Quốc Phòng một điều kiện gọi là ‘’Tu chính Kennedy’’ (Kennedy Amendment). Như ta đã hay, khi ký một hợp đồng dài vài chục trang, nhiều khi chỉ vì ba chữ ‘’với điều kiện’’ (subject to) được nhét vào một câu nào đó ở một trang khúc giữa chẳng hạn, là đã có thể làm vô hiệu hóa chữ ký. Ví dụ như mấy chữ ‘’với điều kiện vợ tôi đồng ý’’ là có thể đổ cho vợ và hủy hợp đồng dễ dàng. Tu chính án Kennedy chỉ thêm mấy chữ là cấm sử dụng Ngân Sách riêng của Bộ Quốc Phòng để chi tiêu tại, cho, hay nhân danh các quốc gia Đông Nam Á. Thế là xong! Đông Nam Á rất rộng: Gồm cả Việt Nam. Kennedy quan niệm là Nixon đã ‘’thất bại trong việc thay đổi tính chất và mục đích của viện trợ và cả chính sách của Hoa Kỳ đối với các nước Đông Dương’’. Ông ta cho rằng viện trợ đã được dùng để kéo dài cuộc chiến. Theo Kennedy, ‘’nếu không đặt trọng tâm vào việc thi hành những mục tiêu chính trị của thỏa ước ngưng chiến…thì mục đích của những món tiền chi tiêu khổng lồ ở Việt Nam không phải là để… cứu nạn nhân chiến tranh, hay kiến thiết xứ sở mà chỉ là để mua thời gian cho chính phủ Thiệu kéo dài chiến tranh’’. [10]
Tuy có quen biết ông thời cùng là hội viên trong Hội Sinh Viên Công Giáo Newman lúc còn ở Đại Học Virginia, tôi miễn cưỡng phái đến năn nỉ ông này. Dù sao, tôi nghĩ vì tình bạn ông sẽ cho tôi chút thời giờ giải thích về nhu cầu viện trợ để xây dựng hòa bình tại Miền Nam, chứ không phải để ‘’kéo dài chiến tranh’’.
Ngày 15 tháng Năm, tôi tới văn phòng ông ở Thượng Viện. Phụ Tá của ông là Jerry Tinker tiếp đón. Tuy có hẹn trước, nói rằng ông ta rất bận rộn. Gặp Kennedy được một chốc lát, tôi tóm tắt tình hình kinh tế, xã hội và quân sự tại Miền Nam, và yêu cầu ông đừng cắt viện trợ nữa. Ông bày tỏ thiện cảm, và nhắc lại vài kỷ niệm ở Hội Sinh Viên Công Giáo lúc còn là sinh viên. Nói được mấy câu thì ông cứ nhìn đồng hồ và tỏ vẻ vội vàng. ‘’Tôi phải đi họp ngay một phiên họp khác’’. Thấy bí, tôi xin đi theo một quãng để trình bày thêm.
Khi rảo bước qua hành lang Thượng Viện, ông Kennedy lại cố đi nhanh, tôi phải theo cho kịp, vừa đi vừa trình bày. Tôi cảm thấy thân phận mình như một người đi cầu xin, lẽo đẽo đi theo một anh nhà giàu!
Tới gần phòng họp, ông dừng lại, ngồi dựa trên thềm cửa sổ rộng lớn, nói chuyện với tôi được vài phút. Nhưng nói gì thì nói, Kennedy vẫn không thay đổi. Ông bắt tay tạm biệt và bước vào phòng họp. Tôi uể oải xách cặp ra về.
Ngày 11 tháng Bảy, 1974, Kennedy đề nghị cắt viện trợ kinh tế cho Việt Nam Cộng Hòa là 50%!
Khấu trừ trội chi
Sau Kennedy, chúng tôi tới bộ Quốc Phòng gặp Eric Von Marbod, lúc đó là Đệ Nhất Phó Phụ Tá Tổng Trưởng Quốc Phòng về An Ninh Quốc Tế! Ông này có rất nhiều kinh nghiệm về tiếp vận. Vì Tổng Thống Thiệu muốn biết rõ về tình hình thực sự của quân viện, tôi yêu cầu ông cho biết những con số thực tế chứ không phải lý thuyết.
‘’Tôi rất buồn phải nói thật với anh rằng mức quân viện đang tiêu cho Việt Nam Cộng Hòa thực sự chỉ có 625 triệu, và có thể chỉ có 500 triệu’’. Ông giải thích là dù Quốc Hội có chấp nhận mức viện trợ hơn một tỷ thì phần còn lại cho Miền Nam cũng quá ítỏi. Tôi bỡ ngỡ, ‘’Đây này’’, ông xé một tờ giấy trong cuốn sổ tay, viết vội xuống cho tôi coi. Và tôi ghi:
Quân Viện cho Việt Nam, Lào (và Kampuchia): $1.126 triệu. Phần Lào (và Kampuchia): $110 triệu, sau đó còn phải khấu trừ đã trội chi cho tài khóa trước: $266 triệu. Mua máy bay F-5E: $125 triệu. Còn lại $625 triệu.
Ông thêm, ‘’số tiền thực sự dùng được có thể chỉ còn 500 triệu sau khi trừ ngân khoản chi phí cho cơ quan DAO Sài Gòn’’. Ông còn nói ‘’ngân khoản đã được phân phối, chẳng còn làm gì khác được nữa’’. Vào thời điểm đó, chưa có ‘’chuẩn chi’’ cho ngân sách viện trợ dứt khoát cho Miền Nam, Bộ Quốc Phòng phải dựa vào một biện pháp gọi là ‘’nghị quyết tiếp tục’’ (continuing resolution), một thủ tục vá víu để chi tiêu.
‘’Vì sao có vụ khấu trừ vào năm trước?’’ Tôi hỏi.
Ông cắt nghĩa là hiện trong nguồn tiếp liệu cho Việt Nam Cộng Hòa, một số quân nhu đã được mua trong tài khóa 1974, nhưng bây giờ phải thanh toán. Đây là một sự việc quan trọng mà ít ai biết vì nó cắt nghĩa tại sao vấn đề tiếp liệu cho Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa đã trở nên quá khó khăn kể từ Hè 1974. Chính Đại Sứ Martin đã hết sức bực tức khi biết chuyện khấu trừ này vì cả ông cũng nghĩ là tiền năm nào thì tiêu cho năm đó chứ sao có thể tính vòng lại? Ông cho trục trặc này phần lớn là do kế toán nội bộ của Bộ Quốc Phòng, gọi họ là những tay đĩ điếm tài chánh (fiscal whores). Ông nói, chính vì chuyện ‘’kế toán’’ lôi thôi này mà tới gian đoạn chuẩn chi tại Quốc Hội, quân viện cho tài khóa 1975 đã bị cắt giảm. Thực ra tôi cho rằng lúc đó nhu cầu tiếp viện bên Trung Đông lên quá cao nên tồn kho quân dụng bị ảnh hưởng và đã có những xoay xở bớt số tiếp liệu cho Việt Nam Cộng Hòa để còn dồn sang cho Do Thái.
Còn 125 triệu cho chương trình F-5E, tôi hỏi Marbod xem có thể du di sang những khoản như đạn dược, xăng nhớt không? Ông cho biết là không được vì mọi việc đã kế hoạch xong rồi. Năm 1973, quân viện là 2,2 tỷ, bây giờ trong thực tế còn có 500 triệu! Ấy là nếu Quốc Hội chuẩn chi 1, 126 tỷ.
Về tới Sài Gòn, chúng tôi vội phúc trình lên Tổng Thống. Chẳng có tin gì tích cực lại phải trình bày những con số tuyệt vọng do Von Marbod đưa ra! Tôi nói với ông Thiệu: Như vậy thì trong thực tế, so sánh với mức trung bình của những năm 1971-1973 (điều chỉnh theo lạm phát), khả năng tác chiến của Việt Nam Cộng Hòa bị giảm khoảng 60%! Nhận xét này cũng trùng hợp với ước tính của Bộ Tổng Tham Mưu về tình hình cuối năm 1974.
Sau này, trong tập hồi ký ‘’Đại Thắng Mùa Xuân’’, Thượng Tướng Văn Tiến Dũng của Hà Nội đã viết về động cơ thúc đẩy Bắc Việt lấy quyết định mở cuộc tổng tấn công Miền Nam: ‘’Mỹ đã giảm viện trợ làm cho kế hoạch tác chiến và xây dựng lực lượng Quân Đội Sài Gòn không thể thực hiện theo như ý muốn’’. Đó là vì ‘’hỏa lực đã sút giảm gần 60% vì thiếu bom, đạn, khả năng di động cũng giảm đi 50% vì thiếu máy bay, xe cộ, và nhiên liệu’’.
Sau khi nghe tôi phúc trình, ông Thiệu lặng thinh, suy tư. Ông mím môi, chắp tay sau lưng bước ra khỏi phòng, lữg thững đi về phía căn lầu riêng của gia đình ông. Ánh mắt ông đăm chiêu, tư lự.
Hết Phần 29 : Khi đồng minh tháo chạy của tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng – “When the Allies ran away” book by Nguyen Tien Hung
Xem lại từ đầu : Khi Đồng Minh Tháo Chạy của Nguyễn Tiến Hưng – P1
Xem lại : Khi Đồng Minh Tháo Chạy của Nguyễn Tiến Hưng – P28
Xem tiếp : Khi Đồng Minh Tháo Chạy của Nguyễn Tiến Hưng – P30
Comments are closed, but trackbacks and pingbacks are open.