Những ngày cuối của Vương Quyền Lào và cuộc chiến Việt Nam – P2
Những ngày cuối cùng của Nhà vua
Trên thực tế, đứng đầu bộ máy quyền lực Lào là nhà độc tài, Chủ tịch Đảng PPRL (Đảng Nhân dân cách mạng Lào) Kaysone Phomvihane.
Chế độ mới ngay lập tức phải đối mặt với một cơn lốc khó khăn. Nền kinh tế dựa vào viện trợ không được tái cơ cấu, trong khi nguồn tiền Phương Tây biến mất sau việc quốc hữu hoá hàng loạt các cơ sở sản xuất.
Bàn tay sắt trong quản lý, những trưng thu không bù đắp được những thiếu hụt và sụt giảm nền kinh tế, ngược lại còn làm tồi tệ hơn.
Pathet Lào trưng ra một khuôn mặt khác sau khi nắm chính quyền.
Những đối thủ chính trị, thậm chí những người từng đóng góp rất nhiều cho Pathet Lào bị đưa đi cải tạo, cư dân thành phố đẩy đi thành lập những khu ‘Kinh tế mới’ nơi rừng thiêng nước độc.
Cuộc bỏ phiếu bất tín nhiệm bằng chân gia tăng, từ năm 1976 sang 1977, rồi 1978
Đối mặt với tình hình trong nước ngày xấu đi, thái độ bất bình ngày càng dâng cao của các tầng lớp dân chúng, những người cộng sản lo sợ người dân sẽ hoài niệm về thể chế quân chủ.
Ở Lào đạo Phật được mến chuộng, người dân vẫn tôn thờ ngai vàng, coi biểu tượng của Vua ứng với thần linh và họ nợ Đức Vua lòng trung thành.
Khôn ngoan là xoá bỏ vĩnh viễn biểu tượng tinh thần đó. Những người Cộng sản nghĩ thế, họ quen với cái gọi là ‘chuyên chính vô sản’ hơn công việc xây dựng đất nước.
Trong nhiều năm, số phận của vua Savang Vatthana, Thái tử kế vị SayVongsavang, cùng Hoàng hậu Khamphoui là đề tài của những tin đồn trái ngược nhau. Một viên chức Lào cho hay rằng, gia đình Hoàng gia sống trong một biệt thự nhỏ, bao quanh là vườn hoa xinh xắn.
Đến năm 1987, sự thật tàn nhẫn mới được tiết lộ. Nhà Vua đã bị giam giữ và bắt buộc phải làm lụng trên cánh đồng tám giờ một ngày, sáu ngày trong một tuần ở tuổi 70. Cả ba đều bị chết sau đó vài năm.
Những nhân chứng thoát khỏi nơi đầy ải đã kể những bi kịch như bản Requiem của triều đại đáng kính này.
Ngày 11/3/1977, cả gia đình Hoàng gia gồm vua Savang Vatthana, Thái tử kế vị SayVongsavang, cùng Hoàng hậu Khamphoui bị áp giải ra khỏi Hoàng cung ở Luang-Prabang dẫn giải về nhà tù khét tiếng ở Viengsay. Sau đó họ bị giải đến Hua Phang, thành lũy lịch sử của Pathet Lào. Một vùng biệt lập hoàn toàn với dân cư, bao bọc bởi rừng núi.
Hoàng gia Lào vào trại cải tạo
Họ bị giam giữ trong khu vực dành cho những thành phần nguy hiểm. Khu trại được xây dựng vào năm 1974, biệt lập bởi những hàng rào tre, nứa vót nhọn, và dây thép gai kín đặc, được dựng nên cũng bởi những phạm nhân của chế độ mới. Trại nằm cách Sam Neua về phía Bắc, cách biên giới Việt-Lào 72 km.
Song chưa yên tâm, để che mắt dư luận thế giới, sợ những người tù cùng ở ‘quần đảo Gulag’ tại Viengsay phát hiện thân thế gia đình Hoàng gia, ba tháng sau, vua Savang Vatthana và gia đình bị dẫn đi tiếp đến Sam Neua, nhốt trong Trại tù số 1.
Hoàng hậu KhamPhoui bị tách khỏi gia đình và giam riêng trong khu dành cho nữ giới. Những người cộng sản Pathet Lào quy định nghiêm ngặt như phạm nhân nam ngước mắt nhìn nữ giới chịu phạt ba ngày nhịn ăn, thậm chí bị nhục hình.
Tháng 9/1977, đại diện cuối cùng của đất nước Triệu Voi được nghe tuyên cáo số 17 của trại: tất cả những phạm nhân bị bắt đều bị coi là kẻ thù của nhân dân và dân tộc Lào, không quyền công dân, giam không xét xử.
Những ngày cuối cùng của Nhà vua
Khi nhập trại, vua Savang Vatthana đã 69 tuổi. Ông không có một đặc quyền lợi nào khác các bạn tù. Ông cùng Thái tử SayVongsavang và ba người cùng trại giam phải lao động ngoài đồng, xay xát lúa gạo. Mỗi ngày, nhà vua nhận từ tay quản giáo hai bát cơm gạo hẩm, lẫn phân chuột. Không quen lao lực, ăn uống thiếu thốn, tuổi cao, Đức vua nhanh chóng suy sụp, sức khỏe xấu đến mức không còn làm việc được.
Nội quy’ số 9 ‘của trại ghi rõ, kẻ nào không lao động sẽ bị cắt khẩu phần ăn. Nhà vua bị liệt vào hạng tù chống đối, bị bỏ đói.
Thái tử SayVongsavang chia phần cơm của mình cho cha, khăng khăng bắt ông phải ăn.
Vào ngày 2/5/1978, Thái tử nối dõi ngai vàng Vương quốc Lào qua đời, nạn nhân của lòng hiếu thảo. Cơm và muối theo khẩu phần khốn khổ cho một người tù không đủ nuôi sống cả hai.
Tự coi mình chịu trách nhiệm về sự hy sinh của con trai, vua Savang Vatthana buông xuôi.
Ngày 13/5/1978, ông nằm trên giường, nói ”Tôi ngủ đây” và trăn trối ”Tôi hiến dâng linh hồn, giọt máu và thân thể của tôi cho mảnh đất mầu mỡ, tươi đẹp của đất nước Lào và có thể cho tất cả dân tộc Lào”.
Ông thở nặng nhọc và ra đi. Ông mất 11 ngày sau cái chết của con.
Vài giờ sau khi ông mất, ba người nấu bếp đào một hố chôn ông không nghi lễ, ảm đạm, thương tâm như mai táng Thái tử Say Vongsavang không lâu trước đó. Họ không được khóc thành tiếng. Lính áp tải vội về ăn cơm tối.
Mộ phần của vua nằm dưới chân cây Kok Leuang (cây đa vàng), khoảng 100m về phía bắc Trại tù số 1, ở rìa con suối Houy Nor Kok trên bản đồ địa phương. Vua an táng đầu hướng về phía Bắc. Con trai ông nằm quay đầu về phía Nam, chôn không xa Tổng tư lệnh cuối cùng Quân lực Hoàng gia Lào, tướng BounPone Makthepharak. Không có bia mộ nào được phép đặt trước nơi an nghỉ cuối cùng của họ.
Hoàng hậu KhamPhoui chịu thân phận tù đầy cũng không được dự phút khâm liệm cả chồng và con trai. Mà chữ khâm liệm cũng xa vời, họ chỉ ném xác những người đại diện cuối cùng Hoàng gia Lào xuống những hố nông đào vội.
Hai năm sau, bà vẫn không biết là chồng và con đã ra đi. Nhân chứng nhìn thấy bà lần cuối không còn nhận ra Hoàng hậu của nước Lào. Tóc bạc trắng và đôi mắt buồn rầu, bà nhai trầu cả ngày để chìm vào quên lãng. Ánh mắt đó cuối cùng cũng tắt vào ngày 12/12/1981. Mộ của bà nằm cách khoảng một km nơi chồng an táng và cũng không có bia.
Ba lời kể và một nỗi nhớ
Ba nhân chứng qua ba thời kỳ đều xác nhận những sự việc kể trên.
Đại tá Khamphan Thammakanti được trả tự do vào năm 1989, sang đoàn tụ với gia đình tại Portland (Orégon, Hoa kỳ), mất ngày 21/8/2004 kể lại rằng Vua cùng 27 thành viên chính phủ gồm các tướng lĩnh, đại sứ, cựu bộ trưởng bị trói và áp giải đến ‘Trại 1’ ngày 28/10/1977.
Cựu đại sứ tại Liên hợp quốc và đại sứ tại Australie, Phagna Kamchanh Pradith được trả tự do tháng 12/1992 cũng đã những trang về những ngày cuối cùng của Hoàng gia Lào trong cuốn ‘Nhật ký’ được dịch ra tiếng Pháp.
Vương hầu Mangkra Souvanna Phouma, trong tác phẩm ‘Giải phẫu xác chết một vương triều bị thảm sát’ còn thêm vào danh sách những tên tuổi Hoàng gia đã là nạn nhân của sự diệt chủng.
Đó là Hoàng thân Souphantharangsi, cựu đại sứ Lào tại Vương quốc Anh, bí thư Hoàng cung cũng bị bắt vào ‘Trại 1’ năm 1977. Bị nhốt cấm cố, đói ăn đã chết năm 1980. Ông cũng chôn trong một hố chôn tập thể cùng đại tá Amkha Khantamixay.
Khi tra cứu những tài liệu về đề tài nhạy cảm này tôi, đã đọc những tài liệu của cả phía Pháp và hồi ký của Hoàng Gia Lào tỵ nạn tại Pháp. Rất nhiều, có thể nhắc đến “La tragédie du roi du Laos-Le destin tragique du dernier roi du Laos” của Philippe Delorme – Historia No 497 05/1988, tạm dịch Bi kịch vua Lào – Số phận nghiệt ngã của vị vua Lào cuối cùng.
Quyển sách ‘Laos Autosie d’une monarchie asssassinée’ (Giải phẫu xác chết một vương triều bị ám sát) của vương thân Mangkra Souvannaphouma.
Chủ đề này được viết trên tờ Le Monde ngày 6/6/2013: ‘Le Roi est mort, vive le mensonge’ (Đức vua đã chết, hoan hô lời dối trá).
Le Monde ngày 1/12/2015, đã dành một bài trang trọng ‘Laos:les derniers soldats du roi’ ‘Lào: những người lính cuối cùng của nhà vua’) của Adrien Le Gal.
Nhà xuất bản Plon năm 1976 cũng cho ra mắt bạn đọc ‘L’Agonie du Laos’ (Lúc nước Lào hấp hối) của vương thân Mangkra Souvannaphouma.
Tôi không nghi ngờ tính xác thực của các nguồn tài liệu kể trên.
Những người Pathet Lào quả không ‘hổ thẹn’ với những người Bolshevik Nga vốn đã giết toàn bộ gia đình Nga Hoàng Nicholas II, kể cả bốn con gái Olga, Tatiana, Maria, Anastasia và con trai Alexis ngày 16/7/1918.
Chúng ta có nợ nước Lào một lời tạ ơn và một câu xin lỗi chân thành?
Đến thăm nước Lào, nhìn những khuôn mặt hiền lành chất phác của người dân ở Luang-Prabang, chuyện trò với người bạn Lào bên những chiếc chum đá khổng lồ vùng Cánh đồng Chum, hay khi cô gái Lào khuôn mặt rám nắng bầu bĩnh, cột vào cổ tay vòng chỉ ngũ sắc chúc phúc, tôi không đủ can đảm nhắc tới những câu chuyện đau khổ đó. Mùi hương nếp và những chiếc áo vàng cà sa của những vị sư đi khất thực càng như ngăn cản những tâm sự của tôi.
Tôi sợ họ buồn trong chiều vàng nhuộm đỏ những mái cong Hoàng cung, mà cánh cửa mầu lam ngọc chạm hình hai vũ nữ múa điệu Lam Vong trên đầu hai con nghê vàng chẳng gợi gì cảnh chết chóc.
Nhưng khi về, tôi cảm thấy day dứt khi chưa nói những điều này, như món nợ lương tâm mà dân tộc tôi đã làm. Họ đã quá yêu Việt nam đến mù quáng chăng?
‘Đất nước của nụ cười-Đất nước Triệu voi’ đã bị những thảm kịch đó làm hoen ố. ‘Chúng ta đã không biết đoàn kết nhau, chúng ta đã không thật lòng với nhau, cuối cùng bị nước ngoài dắt mũi và trở thành tiểu quốc của họ’, Vương thân Mangkra Souvannaphouma nhỏ máu đau đớn viết ra những lời như thế. Những giọt nước mắt cay đắng, hối hận có phần muộn mằn đó có thể vận vào Campuchia, Lào, hay Việt Nam ?
‘Kẻ nào bắn vào quá khứ bằng súng lục, kẻ đó sẽ bị tương lai trừng phạt bằng đại bác‘, một ngạn ngữ cổ Dagestan chiêm nghiệm. Thanh bình hôm nay trên đất Lào vẫn cón những gì như chưa hoàn chỉnh, như ảo ảnh.
Sẽ có ngày phán xử, không sớm thì muộn. Chẳng cái chết nào là vô ích cả.
Và ngày ấy, ở trên đó, King Savang Vatthana sẽ có thể mỉm cười. Cái chết của ông không uổng, nó gieo hạt mầm cho tương lai.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của nhà báo tự do Phạm Cao Phong ở Paris, Pháp.
Xem lại : Vương quyền Lào và cuộc chiến ở Việt Nam – P1
y8r5cz
4v63p9