Giang Đoàn xung phong Việt Nam Cộng Hòa – Hải Quân Nước Nâu – ARVN Brown Navy
Giang đoàn xung phong thuộc Hải Quân Nước Nâu – ARVN Brown Navy là các đơn vị trang bị tàu thuyền cỡ nhỏ, vũ chính là pháo cỡ 30-40mm, súng máy, … khu vực hoạt động là sông ngòi, kênh rạch trong đất liền, nhằm phân biệt Hải Quân Nước Xanh là các đơn vị tàu lớn hoạt động trên biển
Năm 1946, Pháp thành lập lực lượng sông ngòi, năm 1947 các đơn vị này được đặt tên là Divisions Navales d’Assaut (Naval Assault Divisions) viết tắt là Dinassauts. Trong khoảng thời gian từ lúc bắt đầu sử dung các Hải đoàn Xung phong trong chiến dịch bình định miền Bắc cho đến khi ký kết hiệp định Genève năm 1954, hải quân Pháp đã tổn thất tất cả 14 giang đĩnh và chiến hạm (trong đó có 1 Giang Pháo Hạm LSIL bị chìm, 2 Trợ chiến hạm LSSL và 2 LCT bị hư hại ), về nhân mạng có khoảng 100 người chết và bị thương. (“Riverine Operations 1966-1969” Department Of the Army 1 October 1973)
Sau hiệp định Genève năm 1954, các đơn vị Hải đoàn Xung phong rút về Nam. Trong chiến tranh ở vùng đồng bằng miền Nam, các Giang đoàn xung phong thuộc Hải Quân Nước Nâu – ARVN Brown Navy có nhiệm vụ tuần tiễu, chống lại quân Giải Phóng trên các tuyến sông, kênh rạch chằng chịt đặc biệt là ở vùng III và IV Chiến Thuật , đặc biệt là trên sông Sài Gòn, Soài Rạp và Mekong. Ngoài ra GĐXP còn tham dự rất nhiều cuộc hành quân phối hợp với các đơn vị chánh quy và các Tiểu khu tổ chức trên khắp vùng 3 và vùng 4 Sông ngòi.
Hải Quân Nước Nâu lãnh nhiệm vụ ở sông ngòi, cửa biển để phân biệt với Hải Quân hay Hải Quân Nước Xanh – Navy là khu vực ngoài biển khơi
Phó Đô Đốc Đinh Mạnh Hùng – Phụ Tá Tư Lệnh Hành Quân Lưu Động trên Sông:
“Hầu hết các cuộc hành quân do Bộ binh tổ chức đều nằm xa các sông rạch vì vậy họ yêu cầu yểm trợ một lực lượng nhỏ để dùng làm phương tiện di chuyển, yểm trợ hải pháo. Loại yểm trợ này gia tăng nhưng trong hành quân phối hợp cũng có tăng nhưng không đuợc nhiều.Không phải vì họ không cần mà vì các cuộc hành quân quá xa các sông rạch. Bất cứ lúc nào họ có hành quân dọc theo sông, họ đều gọi chúng tôi. Trong giai đoạn cuối ở tỉnh Kiến Tuờng chúng tôi có cuộc hành quân rất thành công. Vào giờ phút cuối ở tỉnh Long An, chúng tôi đã giúp Bộ binh rất nhiều. Chúng tôi giúp họ ở nhiều nơi. Nhiều khu vực Bộ binh không thể giữ vững vị trí nếu không có sự yểm trợ của chúng tôi.”
Về phần Bộ Tư lịnh Hỗ Trợ Quân Sự Hoa Kỳ (MACV): “trong phần lớn các khu vực ở Vùng 3 và Vùng 4 Chiến thuật, các thủy lộ trong nội địa cung cấp phương tiện an toàn nhất để vận chuyển lính và quân dụng cần thiết hầu duy trì ưu thế về quân sự. Kiểm soát được các tuyến giao thông liên lạc trên sông rất thiết yếu để hỗ trợ các căn cứ của chánh phủ và mang lại thành quả trong việc bành trướng các khu vực đang được miền Nam kiểm soát rất hiệu quả. Các sông rạch, hầu hết rất hẹp và hai bên bờ cây cối um tùm, vì thế các giang đĩnh vô cùng bất lợi trong các cuộc phục kích của địch dọc theo các sông rạch. Nhiều thủy lộ, đặc biệt trong mùa khô, mực nước xuống thấp, hai bên bờ cao hẳn lên làm giảm khả năng tự phòng vệ và các cuộc phản pháo của các giang đĩnh đã không mang lại kết quả.
Mối liên quan giữa Bộ binh và Hải quân cũng rất cần thiết, Hải quân cần đến bộ binh cung cấp an ninh dọc theo hai bờ sông và ngược lại các đồn ven sông cũng phải cần đến sự bảo vệ của hải quân. Các giang đĩnh tham dự các khu vực hành quân hỗn hợp đã đóng góp đáng kể về khả năng lưu động và hỏa lực hùng hậu.
Các cuộc hành quân sẽ rất hiệu quả nếu các ưư điểm này được đưa vào việc soạn thảo kế hoạch hành quân
– Ngày 10 tháng 4-1953, Hải đoàn Xung phong ở Cần Thơ là đơn vị đầu tiên của HQVN chính thức được thành lập. Hải đoàn Xung phong này chỉ có 5 giang đĩnh loại đổ bộ (3 LCM và 2 LCVP) trang bị đại bác 20 ly và đại liên 50 hoạt động trên sông Mekong. Thủy thủ đoàn Pháp-Việt nhưng do Pháp chỉ huy và đặc biệt là treo cờ Việt Nam.
– Tháng 6-1953, Hải Đoàn Xung Phong ở Vĩnh Long bắt đầu hoạt động với lực lượng tương đương Hải Đoàn Xung Phong ở Cần Thơ
– Tháng 3-1954 HĐXP 22 ra đời và tiếp theo là HĐXP 25 trong tháng 8.
Phó Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng đã kể về giai đoạn này như sau :
“Tôi gia nhập Hải quân năm 1952 và tốt nghiệp năm 1953 từ Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang. Sau khi tốt nghiệp, tôi đi thực tập vài tháng trên một huấn luyện hạm. Sau đó tôi thuyên chuyển qua một giang đoàn xung phong (River Assault Division) ở miền Bắc, hoạt động từ Nam Định cho đến bờ biển. Chúng tôi chuyển vận tiếp liệu từ biển về Nam Định và trong thời gian đó hoạt động hầu hết ở vùng này.
Đây là một Giang đoàn phối hợp Pháp-Việt. Mang cờ Việt Nam; đon vị truởng là nguời Pháp, có nhiều sĩ quan Việt Nam, thủy thủ đoàn hỗn hợp. Chúng tôi hoạt động ở đó cho đến ngày đinh chiến. Sau đó rút khỏi Phát Diệm. Từ Phát Diệm chúng tôi mang dân chúng ra một Dương Vận Hạm (LST) ngoài biển. “
– Tháng 10-1954, HQVN có 4 GĐXP, quân số lên đến 1500 người gồm cả Sĩ Quan và các thủy thủ, binh sĩ
– Tính đến cuối năm 1963 có 6 Giang Đoàn Xung Phong, đồn trú tại các căn cứ:
– Giang Đoàn Xung Phong số 21 tại Mỹ Tho
– Giang Đoàn Xung Phong số 22 ở Sài Gòn (đây là đon vị lưu động, vùng hoạt động không cố định)
– Giang Đoàn Xung Phong số 23 tại Vĩnh Long
– Giang Đoàn Xung Phong số 24 tại Sài Gòn
– Giang Đoàn Xung Phong số 25 tại Cần Thơ
– Giang Đoàn Xung Phong số 26 tại Long Xuyên
Ngoài ra còn có 1 Giang đoàn Hộ tống tại Sài Gòn (trong thời gian này trực thuộc Vùng 4 Sông Ngòi).
Về biên chế và tổ chức, chỉ-Huy-Trưởng của mỗi Giang-Đoàn Xung-Phong (River Assault Group) có thể là Thiếu-Tá hoặc Đại-Úy Hải-Quân. Về sau, vì thiếu sĩ quan, một số sĩ quan tốt nghiệp từ trường Bộ-Binh Thủ-Đức biệt phái cũng được huấn luyện để giữ những chức vụ này.
Thông thường, mỗi Giang-Đoàn Xung-Phong được trang bị:
- 6 LCVP – mỗi LCVP có 1 đại bác 20 ly và 2 trung liên 7 ly 62.
- 6 Fom – mỗi Fom có 1 đại liên 12 ly 7 và 3 trung liên 7 ly 62.
- 4 LCM – mỗi LCM có 2 đại bác 20 ly và 2 đại liên 12 ly 7.
- 1 Combat, được trang bị: 1 đại bác 40 ly, 1 súng cối 81 ly, 2 trung liên 7 ly 62 và 1 đại liên 12 ly 7.
- 1 Commandement, được trang bị: 2 đại liên 12 ly 7 hoặc 1 đại liên 40 ly, 2 trung liên 7 ly 62 hoặc 20 ly và 1 súng cối 81 ly.
Ngoài ra, trên mỗi giang đỉnh đều có súng cá nhân như M79, M16 và 57 trực xạ.
Lực lượng sông ngòi tính đến cuối năm 1963 gồm có 7 Soái đĩnh (Commandament), 11 Tiền Phong Đĩnh (Monitor), 35 Quân Vận Đĩnh (LCM Armored), 58 Tiểu Vận Đĩnh (LCVP Armored) và 46 Tiểu Giáp Đĩnh (STCAN).
Từ tháng 1 đến tháng 10-1963, quân Giải Phóng đã tấn công 73 lần vào các giang đĩnh của các Giang Đoàn Xung Phong, 23 giang đĩnh đã bị thiệt hại, trong số này có 8 chiếc bị chìm (1 Monitor,2 LCM, 5 LCVP) 5 chiếc thiệt hại trung bình và 10 chiếc bị thiệt hại nhẹ. Hai mươi chiếc sau khi sửa chửa đã hoạt động trở lại, 3 chiếc bị phế thải. (tài liệu ngày 6 tháng 1-1964 của HQ Đại Tá J.Drachnik cố vấn Hải quân Việt Nam Cộng Hòa)
Những năm tiếp theo, cuộc chiến lan rộng, tổn thất của các đơn vị sông ngòi nói chung và các đơn vị GĐXP nói riêng càng gia tăng.
– Tháng 10-1965, Hoa Kỳ chuyển giao 4 Tuần giang đĩnh (RPC) và 16 LCM-6. Các LCM này sẽ được biến cải để thành lập các GĐXP tiếp theo. Tháng 2-1966, Hoa Kỳ chuyển giao thêm 4 Tuần Giang Đĩnh (RPC). Tháng 3-1966, tăng lên 7 GĐXP. Tháng 5-1966, tăng lên 10 GĐXP. Tháng 9-1966, tăng lên 13 GĐXP, thêm 3 giang đoàn mới được thành lập là Giang Đoàn số 31 ở Vĩnh Long, Giang Đoàn số 32 ở Long Xuyên vàGiang Đoàn số 33 ở Cần Thơ.
– Tháng 5-1967, vì nhu cầu tuần tiểu và hành quân đổ bộ trong khu vực sông Hương, một đơn vị gồm 6 giang đĩnh thuộc GĐXP đã được biệt phái ra Vùng 1 Duyên Hải. Đây là lần đầu tiên các giang đĩnh này hoạt động ngoài vùng đồng bằng miền Nam. Đơn vị này tạm thời ở chung căn cứ với Duyên đoàn 12 tại Thuận An và đặt dưới sự sử dụng của Duyên đoàn 12. Tháng 1-1968, BTL/HQ tiếp tục gởi 4 LCVP và 2 LCM ra vùng 1, đặt dưới quyền điều động của Duyên đoàn 12, tăng cường hoạt động tuần tiễu trên sông Hương.
Đến cuối tháng 1-1968 có 13 GĐXP từ GĐ 21XP đến GĐ 33XP hoạt đông ở miền Nam với tổng số 225 giang đĩnh đủ loại (kể luôn Giang đoàn Hộ tống). Tháng 6-1968, GĐ32XP không còn hoạt động ở Vùng 4 Sông Ngòi. Các giang đĩnh đã được tăng phái ra Vùng I Duyên Hải trực thuộc GĐ32XP, căn cứ đặt ở Huế.
– Tháng 11-1971, các GĐXP đã được phối trí như sau:
Giang Đoàn số 21 : Đồng Tâm (Mỹ Tho) trực thuộc Vùng IV
Giang Đoàn số 22 : Sài Gòn trực thuộc Vùng III
Giang Đoàn số 22 : Vĩnh Long trực thuộc Vùng IV
Giang Đoàn số 24 : Phú Cường (Bình Dương) trực thuộc Vùng III
Giang Đoàn số 25 : Sóc Trăng trực thuộc Vùng IV
Giang Đoàn số 26 : Bạc Liêu trực thuộc Vùng IV
Giang Đoàn số 27 : Nhà Bè trực thuộc Vùng III
Giang Đoàn số 28 : Long Bình (Biên Hòa) trực thuộc Vùng III
Giang Đoàn số 29 : Cà Mau trực thuộc Vùng IV
Giang Đoàn số 30 : Phú Cưòng (Bình Dương) trực thuộc Vùng III
Giang Đoàn số 31 : Vĩnh Long trực thuộc Vùng IV
Giang Đoàn số 32 : Huế trực thuộc Vùng I
Giang Đoàn số 33 : Đồng Tâm (Mỹ Tho) trực thuộc Vùng IV
Vào thời điểm này, số giang đĩnh trực thuộc trong mỗi giang đoàn đã giảm xuống do tổn thất trong cuộc chiến, chỉ còn 1 Soái đĩnh (Commandament), 1 Tiền phong đĩnh (Monitor), 5 Quân vận đĩnh (LCM), 3 Tiểu vận đĩnh (LCVP) và 3 Tiểu giáp đĩnh (FOM), các Tuần giang đĩnh (RPC) do Hoa Kỳ cung cấp hầu hết đã bị thiệt hại nên không còn được sử dụng.
Phó Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng đã kể về các thiệt hại và chiến thuật của Quân Giải Phóng trong việc đối phó các Giang Đoàn Xung Phong :
“Giai đoạn đầu chúng tôi đối đầu với nhiều cuộc phục kích. Sau họ đổi qua mìn. Rồi họ đổi qua đặc công thủy (Sappers). Càng về sau, vũ khí họ càng mạnh bao gồm từ súng không giật cho đến hỏa tiễn B-40, B-41 và ngay cả hỏa tiễn chống chiến xa. Họ dùng các loại vũ khí đó để đối đầu với giang đĩnh. Tuy súng B-40 không thể làm chìm giang đĩnh hạng nặng nhưng gây thiệt hại khá lớn. Hỏa tiễn và mìn có thể làm chìm giang đĩnh . Về sau này họ sử dụng rất nhiều cuộc tấn công bằng đặc công thủy và nhiều loại mìn khác nhau. Chiến thuật đánh mìn của họ rất công hiệu, tôi không hiểu sao họ có thể làm đuợc. Để tránh bị tấn công, chúng tôi ra lệnh mỗi đêm giang đĩnh phải rời khỏi khu vực và rời khỏi cầu tàu.
Báo cáo của Bộ Tư Lịnh Lực Lượng Hải Quân HK tại Việt nam cho thấy là trong mùa hè 1972 từ tháng 4 đến tháng 7 có tất 57 giang đĩnh HQVN bị chìm vì các nguyên nhân:
– 19 giang đĩnh chìm vì bị phục kích.
– 27 giang đĩnh chìm trong khi tuần tiễu.
– 9 giang đĩnh chìm tại căn cứ vì đặc công dưới nước.
– 2 giang đĩnh chìm không rõ lý do.
Trong số này 29 chiếc đã được trục vớt, 14 chiếc công tác trục vớt đang được tiến hành, 14 chiếc không thể cứu vớt, bị phá hủy tại chỗ. Báo cáo của BTL/Hỗ Trợ Quân Sự HK tính đến tháng 3-1973 đã cho thấy tổng cộng số giang đĩnh bị loại khỏi vòng chiến là 95 chiếc (tính luôn lực lượng thủy bộ và ngăn chặn và tuần thám), rất nhiều giang đĩnh đã bị hư hại nhẹ hoặc trung bình, sau khi sửa chửa đã trở lại hoạt động.
fxeub2