Đặc nhiệm Nga tham chiến cuộc chiến ở Việt Nam
Chưa có sự xác nhận chính thức nào của các bên về việc có hay không sự hoạt động của các toán lính biệt kích đặc nhiệm Liên Xô tham chiến trong cuộc chiến Việt Nam. Trong khi trên một số mạng của Nga cũng có đề cập đến một số hoạt động của lực lượng biệt Liên Xô ở đây, tuy nhiên lượng thông tin rất ít ỏi. Đó là chiến dịch đánh cắp 1 trực thăng Mỹ Cobra tại Khe Sanh năm 1962 và một số hoạt động ở khu vực Tây Ninh, hay việc huấn luyện biệt động
Gia đoạn năm 1950-1960, Liên Xô đã chuyển hướng chiến lược sang khu vực Đông Nam Á tuy nhiên, thủ tướng Liên Xô Nikita Khrushchev muốn tránh các cuộc đối đầu như khủng hoảng Cuba năm 1962. Tuy nhiên, người kế nhiệm là Alexey Kosygin và Leonid Brezhnev đã đẩy mạnh viện trợ cho chiến trường Đông Nam Á và đặc biệt là Việt Nam
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam, ngoài vũ khí, Liên Xô còn gửi đến Việt Nam cả những chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực quân sự cũng nhưng dân sự. Điều này làm người Mỹ lo ngại thực sự. Để minh họa cho sự lo ngại đó, các nhà làm phim Mỹ đã thực hiện bộ phim “Rambo”. Trong đó, các đạo diễn Mỹ đã “đưa ra ánh sáng” những trận chiến khốc liệt giữa các “anh hùng” của họ và “những tên côn đồ khét tiếng” của lực lượng đặc biệt Liên Xô. Tất cả sự sợ hãi trước những người lính đặc nhiệm Liên Xô được tập trung thể hiện trong bộ phim đó, như một cách để thuyết phục các chính trị gia Mỹ về cái gọi là “sự dính líu của Liên Xô ở Việt Nam”. Thế nhưng, nếu tính ra, số quân nhân Liên Xô đến Hà Nội chỉ bằng khoảng 6/1.000 so với quân số Mỹ (chưa kể thêm 4.000 nhân viên gắn mác dân sự ở Nam Việt Nam). Rõ ràng sự sợ hãi được đề cập trong bộ phim “Rambo” chỉ là sự phóng đại.
Trên thực tế, các chuyên gia và cố vấn Liên Xô tham chiến ở Việt Nam có mặt ở miền Bắc Việt Nam chủ yếu tham gia đào tạo sĩ quan Việt Nam và dạy cách sử dụng vũ khí trang thiết bị quân sự của Liên Xô. Trái ngược với mong đợi của người Mỹ, mà theo dự báo của họ, công việc đào tạo của chuyên gia Liên Xô đạt được kết quả phải mất ít nhất một năm. Người Việt Nam chỉ mất 2-3 tháng đã có thể làm chủ trang thiết bị quân sự do Liên Xô viện trợ và sử dụng các vũ khí mới đó chống lại người Mỹ. Điều này dẫn đến sự nghi ngờ lớn trong quân đội Mỹ, họ cho rằng chuyên gia Liên Xô tham trực tiếp vào cuộc chiến, và rằng những phi công đối phương đang đối đầu với họ trên bầu trời không phải là những người Việt Nam mà là những phi công Xô-viết.
Không thể phủ nhận rằng người Mỹ có lý do để không tin tưởng vào sự đảm bảo của Liên Xô rằng, không đưa các lực lượng đặc nhiệm Liên Xô tham chiến ở Việt Nam và các chuyên gia quân sự chỉ làm nhiệm vụ cố vấn. Thực tế là phần lớn dân số của miền Bắc Việt Nam vừa mới được xóa mù chữ. Những khó khăn kinh tế sau cuộc Kháng chiến chống Pháp hạ thấp thể lực của đa số dân chúng. Ngay cả sức lực tối thiểu của sự chịu đựng và sức mạnh ở nam giới bình thường cũng yếu. Theo đánh giá, thanh niên chỉ có thể cầm cự được trong vòng 10 phút chiến đấu với kẻ thù. Về kỹ năng trong việc thử nghiệm trên máy móc hiện đại là hoàn toàn không có.
Dù khó khăn, cần phải nhớ rằng, có hơn 10.000 người Việt Nam được gửi sang Liên Xô đào tạo quân sự và kỹ thuật-công nghệ quân sự hiện đại, những người trẻ Việt Nam khi sang Liên Xô học, chậm chí mới chỉ biết đọc viết hay học qua lớp ba trường làng, như phi công “Ách” Nguyễn Văn Bảy chẳng hạn. Theo các đánh giá khác nhau, viện trợ hữu nghị cho Việt Nam tiêu tốn của ngân sách Liên Xô từ 0,5-2 triệu USD/ngày.
Đứng trước nhiều khó khăn này, trong năm đầu tiên của cuộc đối đầu bằng không quân Việt Nam (1964-1965) đã tiêu diệt một phần lớn số máy bay quân sự của Mỹ. Máy bay MiG đã giành được khả năng cơ động cao hơn trước những “bóng ma” huyền thoại của Không quân Mỹ, họ đã tấn công chớp nhoáng gây thiệt hại vào đội hình bay của quân đội Mỹ và trốn tránh thành công sau vụ tấn công. Hệ thống phòng không là thách thức thật sự với Không quân Mỹ vì chúng được đặt dưới vỏ bọc của rừng rậm nhiệt đới, do đó, phần lớn máy bay ném bom Mỹ đã bị bắn rơi. Ngoài ra, công tác tình báo đã hoạt động thành công, thông báo kịp thời và trước thời hạn về những phi vụ xuất kích của máy bay đối phương. Người Mỹ đánh giá, toàn bộ hệ thống phòng không của miền Bắc Việt Nam khi đó không cho phép bất kỳ máy bay tiêm kích nào qua mặt, đã được Liên Xô xây dựng, thông qua các cố vấn Liên Xô.
Với những cố vấn Liên Xô, những ngày tháng đầu tiên ở Việt Nam là vô cùng căng thẳng. Điều kiện khí hậu khác nhau, xuất hiện các căn bệnh lạ, côn trùng gây phiền nhiễu không phải là vấn đề chính trong thực hiện nhiệm vụ của họ. Việc đào tạo các đồng chí Việt Nam không hiểu tiếng Nga diễn ra bằng cách “cầm tay chỉ việc”, bời vì không phải lúc nào cũng có sự giúp đỡ của thông dịch viên, một lực lượng thiếu hụt nghiêm trọng vào thời điểm đó. Tuy nhiên, các chuyên gia Liên Xô không trực tiếp tham gia chiến đấu, vì họ có số lượng rất ít, và có “giá trị lớn” và không được phép đem ra đánh đổi trong bất kỳ trận chiến nào. Theo hồi ký của các cựu chuyên gia Liên Xô, họ thậm chí không có vũ khí cá nhân của mình.
Chính quyền Mỹ biết rõ có sự giúp đỡ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam, nhưng tất cả các chuyên gia, gồm cả chuyên gia quân sự, đều bắt buộc phải mặc trang phục dân sự, tất cả giấy tờ tùy thân của họ đều bị giữ lại ở Đại sứ quán Liên Xô tại Hà Nội, và cả đích đến cuối cùng của “chuyến công tác” của mình, họ cũng chỉ được biết vào phút chót. Yêu cầu về tính bí mật được người ta giữ kín cho đến khi chuyên gia Liên Xô rút khỏi Việt Nam, số liệu chính xác và tên tuổi của những người tham gia đã không được tiết lộ cho đến thời gian gần đây. Bên cạnh đó, Bộ Chỉ huy Mỹ nghiêm cấm việc bắn tàu và phương tiện vận tải của Liên Xô, bởi hành động như vậy có thể kích động một cuộc Chiến tranh thế giới thứ ba. Số vũ khí phòng không kể trên đến được với Hà Nội cũng là một kỳ tích, bởi trên suốt quá trình vận chuyển đã phải trải qua các vụ đánh bom ác liệt của Không quân Mỹ và cả sự dòm ngó của Trung Quốc.
Theo Trung tướng Phạm Tuân – Anh hùng LLVT nhân dân, trên bầu trời Việt Nam duy nhất có một trận không chiến có sự tham gia của cố vấn quân sự, phi công Xô Viết, trận chiến được Đại tá – PGS- TS Trần Nam Chuân Viện Chiến lược Quốc phòng/Bộ Quốc phòng đã ghi theo lời Trung tướng Phạm Tuân kể lại trong bài viết đăng trên báo Quân đội Nhân dân. Vào tháng 9/1972, trên máy bay MiG-21US huấn luyện 2 chỗ ngồi không được trang bị vũ khí, phi công tiêm kích Việt Nam và cố vấn quân sự Xô Viết thực hiện chuyến bay huấn luyện thường xuyên.
Ở tầm xa 8km cách sân bay, họ nhận được thông báo về một tốp F-4 đang tiếp cận ở độ cao thấp. Lúc đó MiG-21US còn lại 800 lít dầu. Thực hiện kỹ thuật thùng trượt, đội bay thoát khỏi đòn tấn công tên lửa thứ nhất., F-4 liên tục tấn công bằng tên lửa 2 lần liên tiếp, nhưng MiG-21US với kỹ thuật xoáy vít đã thoát khỏi, tên lửa bay trượt mục tiêu, lần thứ 3 F-4 lại tiếp tục tấn công và cũng không thu được kết quả. Nhưng những lần cơ động đó đã tiêu hao toàn bộ lượng dầu còn lại của MiG-21US. Quyết định thông minh cuối cùng là nhảy dù, khi MiG-21US lấy độ cao thì động cơ chết máy, 2 phi công bung dù khi chiếc MiG-21US anh dũng trúng tên lửa trong lần tấn công thứ 4. Đội bay Việt-Xô tiếp đất an toàn. Trận không chiến gay cấn với sự góp mặt của phi công Liên Xô xảy ra chỉ vài tháng trước khi Không quân Mỹ tiến hành chiến dịch Linebacker II (18/12/1972 – 30/12/1972) tấn công ồ ạt trên toàn bộ miền Bắc.
Theo “Tiếng nói nước Nga“, chuyên gia Liên Xô đã trực tiếp tham gia các trận đánh bảo vệ bầu trời Việt Nam, “Tiếng nói nước Nga” đã ông Nikolai Kolesnik – chủ tịch Hiệp Hội cựu chiến binh Việt Nam trên toàn Nga, người mà từ năm 1965,đã tham gia các trận chiến đấu phòng không chống lại các cuộc không kích ồ ạt của lực lượng không quân Mỹ, trong vị trí của những chiến sĩ – trắc thủ tên lửa Xô Viết.
N.Kolesnik: Sự giúp đỡ của Liên bang Xô Viết trong những năm chiến tranh là vô cùng to lớn và toàn diện trên mọi mặt, chỉ tính riêng viện trợ quân sự của Liên Xô về giá trị đã lên tới khoảng hai triệu đô la một ngày cho tất cả những năm chiến tranh.
Việt Nam đã nhận được một số lượng rất lớn vũ khí khí tài, trang thiết bị và phương tiện phục vụ cho chiến đấu. Chỉ cần trích dẫn một vài con số: 2.000 xe tăng, 7.000 khẩu pháo và súng cối, hơn 5.000 nòng súng, pháo phòng không các loại và các tổ hợp kỹ thuật, 158 tổ hợp tên lửa phòng không, hơn 700 máy bay chiến đấu, 120 máy bay trực thăng , 100 tàu chiến các loại. Và tất cả khối lượng cơ sở vật chất, vũ khí khí tài, phương tiện chiến đấu này đều là viện trợ không hoàn lại.Để có thể khai thác sử dụng vũ khí trang bị, khí tài chiến đấu, cán bộ chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam phải được học tập và huấn luyện kỹ năng. Chính vì điều này, các chuyên gia, cố vấn quân sự và kỹ thuật viên được gửi đến Việt Nam.Từ tháng 7/1965 đến hết năm 1974, thực hiện nhiệm vụ quốc tế vô sản tại Việt Nam đã có sự tham dự của 6.500 sĩ quan và tướng lĩnh, cũng như hơn 4.500 hạ sĩ quan, chiến sĩ của lực lượng vũ trang Xô Viết. Ngoài ra, các trường quân sự và các học viện của Liên Xô đã đào tạo các cán bộ nòng cốt của Lực lượng vũ trang Việt Nam – hơn 10.000 người.
Người ta nói rằng, vũ khí trang bị, được viện trợ từ СССР vào Việt Nam đã lỗi thời?
N. Kolesnik: Vào thời điểm đó là hiện đại nhất. Ví dụ, với máy bay chiến đấu “MiG-21” – các phi công Việt Nam bắn rơi “F-105” “F4 “pháo đài bay “B-52”. Trong tất cả những năm chiến tranh, các máy bay tiêm kích của Quân đội nhân dân Việt Nam bắn hạ 350 máy bay địch. Không quân Việt Nam tổn thất ít hơn rất nhiều, chỉ có 145 máy bay.Trong lịch sử không quân nhân dân Việt Nam có những phi công – ace, chiến công của họ có tới 7, 8 và 9 máy bay Mỹ bị bắn hạ. Đồng thời, thành tích của phi công ace – pilot Mỹ cao nhất Charles B. DeBellevue ở Việt Nam chỉ có 6 lần chiến thắng trên không. Trong các trận không chiến ở Việt Nam, các tên lửa của Liên Xô S-75 “Dvina” là có khả năng đánh trúng mục tiêu trên không ngay cả ở độ cao 25 km.”Đây thực sự là các đầu đạn nguy hiểm nhất được phóng lên từ mặt đất từ trước đến nay vào mục tiêu là những máy bay chiến đấu”, theo tuyên bố của tạp chí Mỹ “MilitaryTechnology – Kỹ thuật quân sự” thời điểm chiến tranh.Lực lượng bộ đội tên lửa phòng không Việt Nam, được đào tạo và huấn luyện của các chuyên gia, cố vấn quân sự Xô Viết, đã bắn hạ hơn 1.300 máy bay chiến đấu Mỹ, trong đó có 54 máy bay ném bom chiến lược B-52. Mỗi chiếc máy bay đó mang trên mình nó 25 tấn bom, mỗi chiếc B-52 có thể tiêu diệt và phá hủy hoàn toàn mọi sự sống và các công trình xây dựng trên một diện tích bằng 30 cái sân vận động bóng đá.Không lực Mỹ ném bom thường xuyên trên tuyến đường vận tải Hồ Chí Minh và tất cả các khu công nghiệp, các thành phố lớn của miền Bắc Việt nam, chúng thường xuyên bay trên các độ cao mà súng phòng không các cỡ nòng không thể với tới được.Sau những chiến thắng đầu tiên của tên lửa phòng không, các phi công Mỹ buộc phải hạ độ cao để tránh tên lửa, nhưng lại rơi vào lưới lửa dày đặc của súng phòng không.Khi có sự xuất hiện của các tên lửa phòng không “Dvina” (tên lửa SAM-2), các phi công Mỹ bắt đầu từ chối nhiệm vụ bay vào không phận Miền Bắc Việt Nam oanh tạc. Bộ tư lệnh lực lượng không quân và hải quân Mỹ phải nhanh chóng đưa ra các giải pháp khẩn cấp như nâng mức tiền bay cho mỗi phi vụ không kích, liên tục thay đổi lực lượng các phi đoàn trên các tàu sân bay. Tại Việt Nam đã xuất hiện một mô hình huấn luyện đào tạo chưa từng có trong lịch sử huấn luyện quân sự, các chuyên gia giảng dạy và các học viên thực hành bằng trận đánh thực tế, mục tiêu địch thực sự.Trong những ngày tháng đầu tiên của lực lượng tên lửa phòng không. Trên các trận địa tên lửa phòng không, các sĩ quan Xô Viết cố vấn giới thiệu tác chiến, các sĩ quan tên lửa Việt Nam học ngay trên xe điều khiển và cùng rút kinh nghiệm.Bài học đầu tiên thật dữ dội đối với không lực Mỹ – vô tình trở thành giáo cụ và quân xanh thực tiễn.
Ngày 24.07.1965, 4 máy bay F-4 “Phantom” lúc đó đang trên đường bay không kích Hà Nội, trên độ cao mà các khẩu đội pháo phòng không không với tới được. Các đơn vị tên lửa đã khai hỏa và bắn hạ 3 trong số 4 chiếc. Ngày 24.07 trở thành ngày truyền thống của Bộ đội tên lửa phòng không Việt Nam.
PV : Ông có nhớ trận chiến đấu đầu tiên mà ông tham gia? Khi nào và kết quả của nó?N. Kolesnik:
Ngày 11/8/1965, chúng tôi lên vị trí chiến đấu 18 lần khi có báo động. Và địch không bay vào khu vực tác chiến – không có kết quả. Cuối cùng, vào lúc đêm khuya, trận địa của tiểu đoàn đã phóng 3 tên lửa bắn rơi 4 máy bay địch. Tiểu đoàn một và tiểu đoàn ba thuộc Trung đoàn tên lửa phòng không Việt Nam, nơi tôi phục vụ trong đêm đó đã bắn rơi 15 máy bay địch.
PV : Không quân Mỹ chắc chắn sẽ săn tìm các đơn vị tên lửa của các ông?
N. Kolesnik: Tất nhiên rồi, các trận địa tên lửa được thay đổi sau mỗi trận đánh. Không có cách nào khác, nếu quân địch phát hiện ra trận địa tên lửa, ngay tức khắc sẽ tấn công dồn dập bằng tên lửa và bom các loại. Người Mỹ bằng mọi cách cố gắng chế áp các hoạt động tác chiến của các đơn vị tên lửa, gây nhiễu, sử dụng tên lửa Shrike chống radar điều khiển. các nhà thiết kế, chế tạo tên lửa cũng phải nhanh chóng phân tích, đánh giá và hoàn thiện, nâng cấp tên lửa và các trang thiết bị, khí tài tác chiến.
PV : Ông có dịp nào được gặp các tù binh – phi công Mỹ?
N. Kolesnik: Chưa bao giờ được nhìn thấy. Vả lại sự có mặt của chúng tôi tại Việt Nam được giữ bí mật tuyệt đối. Chỉ cần biết rằng, trong suốt thời gian công tác, chúng tôi chỉ được mặc đồ dân sự, không có vũ khí cá nhân và hoàn toàn không có giấy tờ gì. Mọi giấy tờ tùy thân được lưu giữ tại Đại sứ quán.
PV : Cấp trên đã thông báo thế nào về nhiệm vụ phải bay đến Việt Nam, và ông đã nói thế nào ở nhà?
N. Kolesnik: Tôi phục vụ trong trung đoàn phòng không thủ đô Moscow. Trung đoàn trưởng thông báo rằng chúng tôi được đề nghị điều động đi công tác ở một đất nước với “khí hậu nhiệt đới rất nóng.” Gần như tất cả mọi người đều đồng ý, và những người đi vì lý do gì, không muốn đi, thì sẽ không được đi. Tôi cũng đã nói như vậy khi ở nhà.
PV : Điều gì gây ấn tượng cho ông nhất – một chàng trai trẻ – khi lần đầu tiên đến Việt Nam?
N. Kolesnik: tất cả đều gây ấn tượng mạnh; Mội trường tự nhiên xung quanh, khí hậu nhiệt đới, những người dân, hầm tránh bom – chỗ mà chúng tôi hay phải chui vào mỗi khi có báo động. Chỉ thị và hướng dẫn nhận được ở Moscow là đào tạo và huấn luyện các trắc thủ tên lửa Việt Nam, nhưng trên thực tế, phải giảng dạy và huấn luyện ngay trên trận địa, trong xe điều khiển, hàng ngày, dưới những trận không kích không ngừng nghỉ của Không quân Mỹ. Các đồng chí Việt Nam là những người kiên trì – họ học rất nhanh và thu thập rất nhanh kinh nghiệm tác chiến. Tôi cũng học được vài câu khẩu lệnh và vài câu nói phổ dụng bằng tiếng Việt.Vấn đề gì là khó khăn nhất ở Việt Nam?N. Kolesnik: Thời tiết nóng và độ ẩm rất cao là điều khó khăn nhất . Ví dụ: sau 40 phút nạp chất ô xy hóa vào tên lửa trong bộ quần áo cao su đặc chủng, chúng tôi gầy đi đến 1 kg trọng lượng cơ thể.Thế hệ trẻ Việt Nam thể hiện mối quan tâm thế nào đối với cuộc chiến tranh và sự tham gia của các ông trong cuộc chiến?N. Kolesnik: Những cựu chiến binh Việt Nam thể hiện sự kính trọng và tình đồng chí vô cùng to lớn với chúng tôi. Chúng tôi cùng nhớ lại những ngày tháng khói lửa, khó khăn gian khổ và những chiến công chung của tình đồng chí. Thế hệ trẻ thực tế hơn, họ với sự quan tâm và tò mò đặt câu hỏi cho chúng tôi về những trận đánh cũng như những chi tiết, những khía cạnh khác nhau của cuộc chiến tranh.
Hiện nay trên đất nước chúng ta có nhiều quan điểm khác nhau về sự tham dự của Liên bang Xô Viết trong các cuộc xung đột nằm ngoài biên giới lãnh thồ. Ông đánh giá thế nào sự tham dự của mình trong chiến tranh Việt Nam?
N. Kolesnik: Đối với tôi cho đến tận bây giờ, đó là những ngày tháng đáng ghi nhớ nhất và đáng sống nhất trong cuộc đời. Tôi và những đồng chí của tôi, Xô viết – Việt Nam đã tham gia vào những sự kiện lịch sử hùng tráng nhất và đã rèn lên chiến thắng – bằng cả nghĩa đen và nghĩa bóng.Tôi vô cùng tự hào là đã mang nhiệt huyết và sức lực của mình đóng góp cho cuộc đấu tranh giành độc lập của dân tộc Việt Nam và có một phần công sức trong công tác xây dựng Lực lượng tên lửa phòng không Anh hùng của Việt Nam.
Đặc nhiệm Nga tham chiến cuộc chiến ở Việt Nam – P1