Chiến dịch giải cứu phi công Mỹ Bat 21 Bravo – Rescue of Bat 21 Bravo – P2
Quân đội Mỹ bất chấp thiệt hại để tổ chức chiến dịch giải cứu phi công Mỹ Bat 21 Bravo – Rescue of Bat 21 Bravo để cứu trung tá Gene Hambleton vì nếu ông bị bắt, sẽ là tổn thất cực kỳ to lớn về tình báo
Trung tá Gene Hambleton đã được đào tạo phương thức tồn tại trong hoàn cảnh thiếu nước uống, cách thức lẫn trốn và đào thoát từ trường đào tạo rừng nhiệt đới ở Philippine. Hiện ông bị thương nhiều chổ do mảnh văng của máy bay nổ, chấn thương 4 đốt sống lưng và gãy 1 ngón tay
Trước khi Hambleton bị bắn rơi, 1 chiếc 0-2 cùa thiếu úy Richard Abbot bị bắn rơi và 2 chiếc Douglas A-1 Skyraiders của đại úy Don Morse trên chiếc A-1 mã hiệu Sandy 01 và chiếc A-1 còn lại là Sandy 02 được lệnh đến ứng cứu. Richard Abbot nhảy dù rơi ra ngoài biển và được chiếc tàu Uss Hammer giải cứu. Lúc này 2 chiếc A-1 Don Morse chuyển sang giải cứu Hambleton. Cứ nghĩ rằng máy bay của Hambleton rơi ở phía Nam nên sẽ an toàn nhưng Don Morse đã shock khi thấy hỏa lực phòng không bắn lên dày đặc. Do Morse mô tả : “Mức độ của hỏa lực phòng không giống như đang chung quanh Hà Nội”
Morse gọi chi viện và 1 chiếc UH-1 (Blue Ghost 39) của thiếu úy Byron Kulland và đại úy Thomas White – sĩ quan hành quân của căn cứ đặt tại Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng đang đi thám sát gần đó. White quay về căn cứ và chỉ thị Kulland tiến lên phía Bắc để ứng cứu cùng với 2 chiếc trực thăng Gunship Cobra là Blue Ghost 24, Blue Ghost 28 của trung úy Rosebeary và 1 chiếc UH-1 Huey (Blue Ghost 30). Khi 4 chiếc đến gần nơi Hambleton thì đều bị bắn lên dữ dội. Chiếc Blue Ghost 39 của Kulland bị bắn hỏng và phải đáp xuống phía Đông cách Hambleton khoảng 7km. Xạ thủ Jose Astorga là người duy nhất không bị thương, thoát được ra ngoài nhưng không kéo được những người khác đang bị thương nặng và mắc kẹt bên trong. Quân Giải Phóng áp đến và bắn liên tiếp và trực thăng phát nổ. Jose Astorga bị bắt giữ còn các thành viên phi hành đoàn còn lại là thiếu úy Byron Kulland, John Frink, Ronald Paschall đều tử trận. Chiến dịch giải cứu phi công Mỹ Bat 21 Bravo – Rescue of Bat 21 Bravo đang có quá nhiều tổn thất
Chiếc Blue Ghost 28 của trung úy Rosebeary cũng trúng đạn và phải đáp xuống, anh cùng toán phi hành đoàn được chiếc HH-35C (Jolly Green 67) giải cứu an toàn. 2 chiếc A-1 của Morse cảm thấy không thể làm gì hơn nên quay về Đà Nẵng, cả 2 chiếc đều bị trúng đạn hư hỏng nặng
Lúc này là 21:00, chiếc OV-10A Bronco mã hiệu Nail 59 đến đảm nhiệm chỉ huy tiền tuyến – FAC, quân đội Mỹ vẫn không nắm rõ được tình thế ở khu vực và lực lượng quân Giải Phóng đang ở gần đó. Suốt đêm, chiếc Nail 59 cùng 1 chiếc HC-130 mã hiệu King 27 của Dennis Constant liên tục quần thảo bên trên để yểm trợ Hambleton lúc này đã đào 1 chiếc hang để lẩn trốn. Chiếc King 27 phát hiện bị Radar của tên lửa SAM-2 đang bám mục tiêu và lẩn tránh ra xa trước khi bị trúng tên lửa
Toàn bộ chiến dịch giải cứu đều đặt dưới quyền chỉ huy của đại tá Cecil Muirhead. Muirhead ra lệnh cho các máy bay FAC liên tục theo sát bên trên và chỉ đạo các máy bay khác oanh kích chung quanh để yểm trợ Hambleton. Muirhead cũng ra lệnh cho Không Lực 7 lập bán kính 27km chung quanh Hambleton để tránh các cuộc pháo kích nhầm lẫn
Thêm nhiều tổn thất trong chiến dịch giải cứu phi công Mỹ Bat 21 Bravo – Rescue of Bat 21 Bravo
Ngày 3 tháng 4, 1 nhóm giải cứu bao gồm 2 chiếc trực thăng HC-35C (phiên hiệu Jolly Green 65 và 66) cùng 4 chiếc A-1 Skyraider (Sandy 04, 05, 06, 07) từ Đoàn giải cứu số 37 tại Nakhon Phanom, Thailand được cử đến. Khu vực của Hambleton đang dưới sự chỉ huy của chiếc OV-10A FAC (Nail 25) của đại úy Rocky Smith và đại úy Rick Atchison. 2 người này đang chỉ huy cuộc ném bom của những chiếc F-4 thả những quả bom chùm chung quanh khu vực Hambleton. Chiếc Nail 25 hết nhiên liệu và rút đi, nhường vị trí lại cho chiếc Nail 38 của đại úy William J. Henderson và thiếu úy Mark Clark
Lúc này, quân Giải Phóng đã bắt được sóng vô tuyến điện của quân Mỹ và quyết định dùng Hambleton như là mồi nhử. Họ bố trí dày đặc các dàn pháo phòng không và tên lửa SAM chung quanh. 1 phi công thuật lại :
“Quân Giải Phóng dùng tên lửa SAM để ép chúng tôi bay thấp để tránh tên lửa và lọt vào lưới phòng không tầm thấp. “
Đại úy Henderson trên chiếc Nail 38 chỉ đạo chiếc Jolly Green 65 của trung úy Jay Crowe tiến vào giải cứu nhưng lập tức chiếc Jolly Green 65 lập tức bị đạn bắn lên dữ dội và hỏng bàn điều khiển. Crowe cố gắng thoát ra ngoài và trong tình trạng què quặt phải bay bằng mắt thường đã đáp được xuống Phú Bài. Chiếc Jolly Green 66 của trung tá Bill Harris ở phía sau hạ độ cao và khi bay vào gặp phải 10 chiếc xe tăng của quân Giải Phóng đang giương súng bắn dữ dội. Harris cố đáp trả bằng những khẩu mini gun GAU-2/A 7.62 mm và thoát được ra ngoài. Chiếc Jolly Green 67 cũng bị hỏng nặng
Chiếc Nail 38 phải liên tục quần thảo để chỉ huy và bị trúng đạn và rơi xuống đất, Henderson trốn trong bụi tre và sau đó bị bắt. Clark nhảy dù và lẩn trốn. Sau đó đến lượt 1 chiếc UH-1 nữa với phi hành đoàn 4 người bị bắn rơi
Ngày 4 tháng 4, 10 chiếc A-1 Skyraider đến dội bom để áp chế các khẩu pháo phòng không, cả 10 chiếc đều bị bắn hỏng trong đó có 2 chiếc bị hư trầm trọng. Lúc chiều tối, 2 chiếc máy bay F-4 của thiếu tá Jimmy D. Kempton lẻn vào khu vực và thả 4 quả bom chung quanh Hambleton
Ngày 5 tháng 4, thời tiết trở nên xấu và ngăn cản hoạt động của quân Mỹ
Ngày 6 tháng 4, lúc 15:15, đợt giải cứu thứ 3 bao gồm 4 chiếc Skyradier (Sandy 01,02,05,06) và 2 chiếc HH-35C ( Jolly Green 67, 60) của phi đội giải cứu số 37 – 37th Air Rescue Squadron tiến vào, 4 chiếc B-52 cũng dội bom chung quanh Cam Lộ. quân Giải phóng đã phóng lên 60 quả tên lửa SAM để ngăn chận. Chiếc Jolly Green 66 của đại úy Peter Chapman tiến vào và 2 chiếc Sandy 01, 02 mang theo bom Phosphore để tạo khói trắng che chắn. Hỏa lực phòng không vẫn bắn lên ác liệt. Chiếc Jolly Green 67 bị trúng đạn què quặt phải thoát ra ngoài bay về hướng Đông Nam, đuôi máy bay bị vỡ ra và mắc kẹt vào động cơ, chiếc máy bay rơi xuống đất và bốc cháy, không có nhân viên phi hành đoàn nào thoát được. Danh sách tử nạn bao gồm : phi công là đại úy Peter Hayden Chapman II, phi công phụ : đại úy John Henry Call III, trung sĩ kỹ thuật William Roy Pearson,, trung sĩ cứu nạn Allen J. Avery, trung sĩ chỉ huy đoàn bay : Roy D. Prater, phóng viên chiến trường James Harold Alley
Lúc này, tinh thần của Hambleton và Clark xuống thấp vì nhận ra đã có 6 người tử nạn khi giải cứu họ. Trưởng toán cứu nạn là đại úy Fred Boli trên chiếc Sandy 01 thấy tình thế quá nguy hiểm nên ra lệnh hoãn cuộc giải cứu và rút về phía Nam. Quân Giải Phóng tăng cường tìm kiếm Hambleton và nhiều lần, các toán quân Giải Phóng chỉ cách vị trí Hambleton lẩn trốn chỉ trong tầm, 6-7m.
Trong chiến dịch Bat 21 Bravo, toàn bộ các phi công tham gia giải cứu đều bị shock trước sự tập trung lượng lớn các khẩu pháo phòng lẫn pháo mặt đất và một lượng cực lớn các dàn phóng tên lửa SAM-2. Ngoài các khẩu pháo cao xạ 23mm, 37mm, 57mm, … các phi công còn đối mặt các khẩu pháo cao xạ 57mm được điều khiển bằng Radar và lượng lớn các tên lửa SAM-2. Các phi công Mỹ còn lần đầu tiên đối mặt các khẩu tên lửa vác vai SA-7 Grail do Liên Xô viện trợ với đầu đạn tầm nhiệt
Xem lại : Chiến dịch giải cứu phi công Mỹ Bat 21 Bravo – Rescue of Bat 21 Bravo – P1
Xem tiếp : Chiến dịch giải cứu phi công Mỹ Bat 21 Bravo – Rescue of Bat 21 Bravo – P3