Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù : Tàn Cơn Binh Lửa – Hồi ký đại úy VNCH Lê Đắc Lực – ARVN Airbone Ranger – P6
Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù : Tàn Cơn Binh Lửa – Hồi ký đại úy VNCH Lê Đắc Lực trong chiến tranh Việt Nam – ARVN 81st Airbone Ranger in Vietnam war – P6
Nhận lệnh từ Trung Tâm Hành Quân xong, cầm trong tay tấm bản đồ, tôi lên trực thăng bay một vòng, quan sát để chọn bãi xâm nhập và triệt xuất trong khu vực Ba Lòng, nơi Toán sẽ hoạt động.
Chiều hôm sau, Toán 3 tôi trở lại Trung Tâm Hành Quân, trong một cái nhà tăng bằng vải dầu, dựng trên một khu đồi trọc, trong phạm vi Chi Khu Hương Hóa. Trước mặt là Trung Tá Phan Văn Huấn Chỉ Huy Trưởng, Trưởng phòng 2, Trưởng phòng 3, và các Toán viên, tôi trình bày kế hoạch hành quân với đầy đủ các chi tiết diễn tiến, thâm nhập, lộ trình, đối phó, mật lệnh, liên lạc, triệt xuất v.v… theo đúng chỉ thị đã được đề ra trong Lệnh Hành Quân và từ Đơn Vị Trưởng. Để thi hành nhiệm vụ, sau khi Toán được trực thăng UH-1B thả xuống bãi ở phía Nam vùng hành quân, Toán di chuyển thám sát về hướng Bắc, xong chuyển hướng Tây Bắc, trong chu vi 5 x 10 cây số mỗi bề của vùng mà Toán 3 đảm nhận.
Chỉ Huy Trưởng, các Trưởng Phòng đặt cho tôi một số câu hỏi, để nắm chắc mọi tình huống xảy ra mà Toán 3 có thể ứng phó được v.v… Buổi trình bày kế hoạch chấm dứt, Toán 3 trở về nghỉ ngơi, kiểm soát lại lương thực, vũ khí, đạn dược để chuẩn bị lên đường ngay chiều tối hôm nay.
Nhu cầu thám sát trong rừng phía Tây của Tỉnh Quảng Trị, không chỉ một mình Toán của tôi đảm nhiệm. Khu vực núi non trùng điệp bên nầy Trường Sơn, bên kia là lãnh thổ Lào, sẽ có các Toán Thám Sát Delta khác nữa, hoạt động ở một số khu vực như: Lao Bảo, Làng Vây, Khe Sanh, với những nhiệm vụ nguy hiểm và hấp dẫn hơn, đó là phục kích bắt sống các cán bộ Việt cọng, không được gây thương vong, để mang về khai thác tin tức. Chúng sẽ cho những tin tức nóng hổi và hấp dẫn về tình hình địch hiện tại, hay địch sẽ thực hiện trong thời gian tới.
Những Toán Thám Sát Delta được giao nhiệm vụ bắt sống địch quân, sau khi phục kích tóm được một tên Việt cọng nào, thì ngay tức khắc, Toán sẽ được trực thăng nhanh chóng vào vùng bốc đưa trở về căn cứ hành quân. Thời gian hoạt động các Toán Thám Sát, vẫn luôn là 7 ngày, nhưng có thể kéo dài hơn hay thu ngắn, tất cả tùy thuộc vào tình hình trận địa, chạm địch, thương vong hay bắt được tù binh.
Với đầy đủ súng đạn, khí tài cần thiết và 7 ngày lương khô, ngay trong chiều nay, Toán tôi thuộc Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù – ARVN 81st Airbone Ranger được đổ xuống bãi đáp mà tôi đã chọn. Thời điểm đổ quân phải là lúc chiều tàn, khi sương lên nhiều và màn đêm đang từ từ phủ xuống, thời gian đó địch khó quan sát, và theo dõi. Bên cạnh đó, lại có mấy Trực Thăng khác đáp nghi trang thêm một vài nơi, khiến địch, dù có nghi ngờ, cũng không thể phát hiện được nơi chúng tôi đổ bãi.
Đổ bộ xuống bãi, Toán cấp tốc di chuyển theo phương hướng, lộ trình đã được trình bày kế hoạch. Toán tuyệt đối không bao giờ di chuyển trên các con đường mòn, vì để lại nhiều dấu vết, rất dễ bị phục kích và gặp phải nhiều mìn, bẫy. Rừng nhiệt đới, cây rừng to cao, tàng che kín trời. Mặt đất rậm rạp, cây nhỏ, cây mây, cây cọ, cây nứa, che kín, mịt mùng rất khó di chuyển. Toán len lỏi, chậm rãi, vạch lá, men theo sườn rừng, từng bước, từng bước để tránh gây tiếng động.
Sau khi rời xa vị trí xâm nhập, nhóm Biệt Cách Nhảy Dù dừng lại tìm chỗ nghỉ quân bên một gốc cổ thụ. Toán bố trí thành một vòng tròn, đầu hướng vào gốc cây, phòng khi đêm tối, bị địch bất ngờ tấn công, thì Toán sẽ phản ứng nhanh chóng về phía trước mà không tác xạ lầm nhau.
Tờ mờ sáng hôm sau, Toán tiếp tục vạch rừng theo hướng đã định mà đi. Cũng chẳng phát hiện được gì. Gần xế chiều, khi đổ xuống một triền núi, thì Toán gặp một con đường mòn chạy từ Tây sang Đông. Dấu tích để lại trên đường cho thấy địch đã có xử dụng. Men theo con đường mòn về hướng Đông, dĩ nhiên vẫn phải đi trong rừng, thêm một đoạn khá dài nữa, Toán lại gặp một con đường mòn lớn rộng khoảng 2 mét, chạy từ hướng Tây Bắc xuống Đông Nam cặp theo sông Đa-Krông. Trên đường cũng thấy dấu tích cũ
của xe hơi, hình như đã lâu bọn địch không còn đi trên con đường nầy. Vậy thì chúng xử dụng đường nào? Đường nầy sát biên giới Lào Việt. Hay chúng vạch một đường mới bên phía Lào, khi thấy con đường bên phía nầy đã bị lộ, bị máy bay oanh kích nhiều lần?
Báo cáo mọi phát hiện về Bộ Chỉ Huy, nhóm biệt kích dù được lệnh tiếp tục di chuyển theo hướng đường mòn nhỏ đi về hướng Đông Đông Bắc. Khu vực hoạt động của Toán, trên phóng đồ hành quân là ở mạn Nam Ba Lòng. Chuyển theo hướng mới, nhìn trên tọa độ bản dồ, Toán tiến gần đến thượng nguồn sông Thạch Hãn và xa hơn là các Thôn Hải Lệ, Tân Lệ và Như Lệ.
Đêm đó, Toán dừng trú quân giữa rừng, lại quay vòng tròn, chia nhau ngủ và canh chờ địch. Sáng dậy, không thấy mặt trời, nhưng hướng Đông trời sáng hơn, chúng tôi lại đi theo hướng cũ . Khoảng trưa, Toán nghe tiếng người nói lao xao, nhưng không rõ âm thanh từng tiếng để biết họ nói gì. Tuy vậy, chúng tôi cũng đoán được đó là tiếng Bắc. Vậy là rõ, Bộ đội Cọng sản miền Bắc xâm lược. Toán dừng lại, núp kín trong rừng, im lặng tuyệt đối, nghe ngóng và quan sát. Không thấy được địch, chỉ nghe tiếng nói của
nhiều người, phỏng chừng ít nhất là cấp Trung Đội đến Đại Đội. Tôi vội chuyển công điện báo cáo về Trung Tâm Hành Quân. Lệnh truyền cho Toán bám sát theo dõi địch quân.
Nhóm Biệt Cách Nhảy Dù lại lên đường, di chuyển theo hướng đi của bọn chúng, đến gần chiều, nắng chưa tắt hẳn, thì Toán thấy địch đang đóng quân giữa rừng. Bọn chúng đang chuẩn bị ăn uống, tôi ngửi được mùi củi cháy. Quan sát kỹ hơn nữa qua ống nhòm, họ có làm bếp. Bếp của họ, có lò nấu đắp kín đất, có ba bốn ống khói mở ra như hình nan quạt. Đầu mỗi nan quạt, khói đang bay lên, nhẹ và loảng. Cách làm bếp như thế nầy là chia khói ra nhiều ngã, làm cho khói loảng đi, tan trong sương, trong không khí, Máy Bay Trinh Sát của ta khó phát hiện được. Đây đúng là một căn cứ tập trung quân của địch.
Tôi khẩn cấp báo cáo tình hình và tọa độ chính xác của địch về Bộ Chỉ Huy Hành Quân. Ngay sau đó, chúng tôi được lệnh rút xa ra khỏi vị trí địch ít nhất là 1/2 cây số. Trực Thăng và Chiến Đấu Cơ sẽ tới oanh kích địch.
Nửa giờ sau, Toán tôi nghe rõ từng loạt đạn rocket bắn ra từ các trực thăng võ trang, rồi tiếp sau không lâu là những tiếng nổ kinh hoàng do các oanh tạc cơ Skyraider thả bom xuống đầu giặc. Trước bom rơi đạn nổ như vậy, tôi nghĩ khó hy vọng còn một tên Việt cọng nào sống sót. Và đúng như tiên đoán, sáng ngày hôm sau Toán tôi được lệnh trở vào vùng địch đóng quân để quan sát và báo cáo kết quả.
Thật là thảm khốc, cả một khoảng rừng trở thành bình địa, một vài nơi lửa còn bốc cháy
âm ỉ, xác địch đếm được khoảng 15 tên, nằm chết ngổn ngang bên những bếp lửa, dưới
những gốc cây hay rãi rác trong những hố sâu do bom cày xới. Có thể một số đã chạy
thoát vì các dấu vết và các vật dụng rơi rớt của chúng đã để lại trên các lối mòn dẫn vào
các hốc núi hay đổ xuống các bờ suối ven rừng.
Trưa hôm đó, Toán được phi cơ quan sát L.19 bay lên vùng liên lạc, Toán đã sử dụng
pano, kính chiếu để phi cơ xác định tọa độ và hướng dẫn đi đến bãi triệt xuất.
Theo hướng máy bay chỉ điểm, Toán đến một bãi tranh trống nằm trên sườn núi, chung
quanh dày đặc rừng cây bao phủ. Toán bố trí đội hình và chờ đợi. Và chỉ một khoảng thời
gian ngắn sau, một trực thăng UH.1B được sự yểm trợ của hai trực thăng võ trang khác
đáp xuống chính xác giữa khoảng trống bãi tranh để bốc Toán đưa trở về lại Căn Cứ Hành
Quân, chấm dứt 7 ngày hoạt động trong rừng sâu của Mật khu Ba Lòng.
***
7)- Đức Cơ. “Đường đi chưa dứt”
“…Trời thấp thật buồn,
Anh khách lạ. Đi lên đi xuống…”
“Còn chút gì để nhớ”
Hướng Đông Đông Bắc Đức Cơ là Pleiku, khoảng cách chừng 60 cây số, tính theo đường
chim bay. Hướng Bắc Đức Cơ khoảng 30 cây số là Trại Lực Lượng Đặc Biệt Plei-
Djereng.
Toán 3 Thám Sát của tôi nhận nhiệm vụ xâm nhập hoạt động trong vùng dọc theo biên
giới Miên Việt này. Đây là khu vực Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II quan tâm, và có nhu cầu
nắm vững tình hình địch trong vùng lãnh thổ của Quân Đoàn.
Sau các trận đánh năm Mậu Thân, quân Cọng sản bị thương vong quá lớn, gần 60 ngàn,
gồm binh lính, cán bộ. Bây giờ, mùa Hè năm 1969, quân Cọng sản đang bổ sung, tái trang
bị, chuẩn bị cho một chiến dịch mới, có thể là Thu Đông 1969 – 1970.
Trung Tâm Huấn Luyện Hành Quân Delta cùng Toán B.52 cố vấn Lực Lượng Đặc Biệt
và Phi Đội 281 Trực Thăng Hoa Kỳ, được đưa tới Pleiku. Bộ Chỉ Huy đóng bên ngoài
23
khu vực phi trường Pleiku, trên một bãi đổ Trực Thăng, cách Biển Hồ về hướng Bắc 9
cây số.
Bây giờ không có thì giờ để đi thăm cái thành phố nhỏ, dù chỉ “đi dăm phút đã về chốn
cũ”. Trung Tá Phan Văn Huấn, Chỉ Huy Trưởng, cùng các Trưởng Ban 2, Ban 3 đã đi
bay tìm hiểu thực địa. Ngày hôm sau, các Toán Trưởng Delta được gọi lên Trung Tâm
Hành Quân, để nghe thuyết trình về tình hình địch, bạn và nhận lãnh sứ mệnh, tức là nhận
vùng trách nhiệm của mình.
Khu vực Toán 3 nằm sát cạnh biên giới, có thể “vượt biên” nếu cần, dù bất hợp pháp vì
vi phạm lãnh thổ nước bạn. Việc ấy không cần quan tâm. Chính Phủ Miên dung dưỡng
Việt cọng, để địch dùng lãnh thổ Miên xâm nhập Miền Nam Việt Nam thì sao?
Cũng như thông lệ, sau khi nhận lệnh và phóng đồ Hành Quân xong, tôi lên trực thăng đi
quan sát vùng hoạt động. Vùng nầy, việc đổ quân không khó, không phải vì thiên nhiên
mà nhờ nhân tạo. Rất nhiều hố bom B-52, bom Napan và rãi rác các vùng cây trơ trụi vì
thuốc khai quang, nên việc chọn bãi xâm nhập và triệt xuất chẳng mấy khó khăn…
Buổi chiều, cả Toán 3 lên Trung Tâm Hành Quân trình bày kế hoạch, nhận thêm các chỉ
thị, hiệu lệnh và đặc lệnh truyền tin. Đặc lệnh thay đổi mỗi ngày nhằm bảo mật và dự
phòng các trở ngại, bất trắc, nếu có v.v…
Trời tuy đã về chiều, nhưng ánh tà dương vẫn còn tỏ sáng, chiếc trực thăng UH-1B chở
Toán hạ thấp trên mép bãi hố bom B.52 giữa rừng già. Nhanh như những con sóc, từ hai
bên cửa, hai ông bạn Mỹ và bốn chúng tôi nhảy xuống lẩn khuất vào rừng. Máy bay lên
cao, không một dấu vết còn lại, địch không thể ngờ.
Nhìn trên bản đồ, từ bãi đổ quân đến biên giới Việt Miên khoảng 2 cây số. Toán đi về
hướng Tây. Núi rừng cao nguyên giống nhau, khe suối sâu, sườn núi dựng đứng. Toán
cứ phải len lỏi giữa cây rừng mà đi. Đêm đó, Toán dừng chân nghỉ đêm trong một hốc
núi đá, bên phần đất Nước ta.
Tờ mờ sáng, Toán thức dậy sớm, tiếp tục di chuyển về hướng Tây. Chưa được bao lâu là
vào lãnh thổ Ông Hoàng Xứ Chùa Tháp.
Đi thêm một quãng, lội qua con suối cạn, Toán dừng lại lót dạ, hai bạn đồng minh trèo
vượt qua mấy rừng cây, dốc núi coi bộ đã thấm mệt, ngồi bệt xuống đám lá khô, tựa lưng
vào các gốc cây, mở bình đông uống nước ừng ực, mặt mũi dầm dề mồ hôi.
Đã hai ngày trôi qua, Toán đi dọc theo biên giới về hướng Bắc 360 độ, đúng theo lộ trình
qui định suốt cả ngày, vượt qua hơn 2 cây số đường rừng, không phát hiện được gì. Trời
càng về chiều, trong rừng càng tối om, Toán tìm chỗ kín đáo, đóng quân, một đêm nữa
lại trôi đi…
Qua ngày mai, theo lệnh truyền đạt của Bộ Chỉ Huy Hành Quân, Toán đi về hướng Đông,
trở lại phần đất của nước ta. Vùng trên này, núi cao, rừng rậm hơn, lại gặp phải cơn mưa
dông đổ xuống dài giờ, nên đường dốc, ướt, đã khó trèo lại càng khó hơn, thêm phần bị
đám vắt tung hoành, cứ đeo bám lên tay, đầu, cổ, phải lấy thuốc bôi để trừ khử bọn chúng,
nên quãng đường đi cũng chỉ mới vượt qua biên giới chừng trên một cây số thì trời đã
tối, Toán rẽ vào một đám rừng âm u, bố trí dừng quân qua đêm.
24
Sáng kế tiếp, trên lãnh thổ nước ta. Toán vẫn di chuyển theo hướng Đông. Chừng hai giờ
sau, vừa đổ xuống một trũng rừng, lội qua một con suối, nước chảy róc rách, Toán đi xuôi
theo dòng nước khoảng 200 mét, thì trông thấy một căn cứ địch, nằm gọn lỏn trong một
rừng cây cao, cũng không cách xa bờ suối.
Căn cứ là mấy ngôi nhà dài, bọn Việt cọng thường gọi là “lán trại”. Nhà lợp lá, dưới
những tàng cây lớn và cao, máy bay trinh sát khó phát hiện. Tiến đến gần hơn, quan sát
kỹ địch tình như thế nào?
Té ra, căn cứ đã bị bỏ hoang!
Tại sao địch bỏ hoang?
Tôi tự hỏi.
Bị ta phát hiện hay nhu cầu không còn nữa. Tết Mậu Thân, chết biết bao nhiêu mạng, lán
trại cho ai ở nữa? Nhìn qua phía trái, tôi chợt thấy có mấy ngôi mộ, chôn cất sơ sài trên
con đường từ căn cứ đi xuống hướng suối.
Chuyện mồ mả trong rừng không lạ gì với tôi. Nhưng mấy trận đụng độ gần đây, bắt một
số tù binh địch, chúng tôi thấy lính tráng Cọng sản còn con nít quá, nghĩa là chúng chưa
tới 18 tuổi. Tuổi chúng 15, 16 là nhiều. Nghe lời khai của chúng tôi thấy tội nghiệp hơn
là tức giận.
Hao hụt quá lớn ở chiến trường Miền Nam, Cọng sản phải tăng quân nhưng hạ tuổi. Trước
Mậu Thân, thanh niên miền Bắc đủ 18 tuổi mới bị bắt thi hành cái gọi là “nghĩa vụ quân
sự”. Gọi là nghĩa vụ nhưng lại bắt buộc thi hành. Sau Tết Mậu Thân, để đủ quân số chi
viện cho Miền Nam, “đảng và nhà nước” Cọng sản Hà Nội phải “vay tuổi thanh
niên”. Vay 2 tuổi, (tức 16 tuổi là đủ để thi hành “nghĩa vụ”), có nơi vay 3 tuổi (tức là mới
15 tuổi).
Đã vay thì phải trả. Đảng và Nhà Nước vay thì bao giờ trả? Hay vay mà không trả! Trả
bằng gì? Chữ nghĩa Cọng sản hay thật. Nói càng hay thì lường gạt càng dễ.
Trên đường rút lui xa căn cứ, tôi cứ vẩn vơ suy nghĩ về mấy tên lính con nít cọng sản
xâm nhập nầy. Biết đâu những ngôi mộ kia là nơi bỏ xác của những thằng lính con nít
ấy.
“Mẹ già lên núi, tìm xương con mình!” Đúng là Nhạc Sĩ Trịnh Công Sơn chẳng biết gì
cả, ngồi ở thành phố mà nói mò. Đây là Vùng Tam Biên, Mẹ già lên tới Pleiku, Kontum
thì Mẹ không còn hơi mà đi nữa, làm sao tới được chỗ hùm beo nầy. Con của Mẹ chết ở
đó thì nằm lại đó, nơi khỉ ho cò gáy này muôn đời đó Mẹ ơi!!!
Toán vẫn hướng Đông thẳng tiến! Chưa tới một cây số, lại gặp đường mòn, không phải
một đường mòn từ Đông sang Tây mà còn có một con đường mòn khác, bắt đầu từ con
đường mòn nầy đi lên hướng Bắc, hướng Trại Lực Lượng Đặc Biệt Plei-Djereng.
Tới quá trưa, đang mò ra quan sát đường mòn, thì súng nổ. Địch bên kia đường trông
thấy chúng tôi nên chúng nổ súng. May mắn không ai bị thương tích gì, Toán nhanh
chóng rút vào sâu trong rừng ẩn núp nghe ngóng. Một lúc lâu, không thấy động tỉnh gì,
25
Toán đi chếch lên hướng Bắc một khoảng xa, xong lần ra lại con đường mòn thì rõ mồn
một, các dấu vết xe hơi, dấu chân người di chuyển còn hằn rõ nét trên mặt đường. Toán
cấp báo về Trung Tâm Hành Quân và nhận được lệnh tiếp tục theo dõi.
Đêm ấy lại ngủ trong rừng già.
Con đường mòn chạy từ Nam lên Bắc, Toán lần theo hướng Bắc mà đi. Mới vừa cho
Toán dừng lại, mở tấm bản đồ để xác định tọa độ điểm đứng, thì bất thần tao ngộ chiến
một lần nữa. Địch từ trên dốc cao đang đi xuống, không ngờ lại đi ngay vào chỗ Toán
dừng quân. Không chần chờ, hai ông Mỹ theo phản ứng tự nhiên hô to:
“Beaucoup vi-xi” và bắn xối xả, một hai tên địch ngã xuống, đám còn lại tản ra núp vào
các gốc cây, gò mối, chống trả lại.
Quân số địch phỏng chừng một Trung Đội. Phía chúng tôi có sáu người, Hạ Sĩ Bông Toán
viên vừa bị trúng thương ở cổ tay, nhưng vẫn còn chiến đấu được.
Địch không ngưng tiếng súng, vừa bắn, vừa hô bằng giọng Bắc kỳ: “Hàng sống, chống
chết. Hàng sống chống chết”. Tôi nghĩ thầm: “Đ. mẹ! chống chết, hàng cũng chết”.
Trước tình thế này, Toán theo ám lệnh của tôi, tuần tự tháo lui, leo lên một đồi thấp kế
cận bố trí ẩn núp, án binh bất động, đồng thời cùng hai bạn Mỹ, liên lạc về BCH/ Hành
Quân để báo cáo sự tình và xin không yểm.
Trên bầu trời, không bao lâu sau đó, đã thấy hai trực thăng UH.1B vần vũ. Trung Tâm
Hành Quân nắm rõ được tình hình. Qua máy truyền tin, Trung Tá Phan Văn Huấn, lệnh
cho Toán chiếu kính và pano để xác định vị trí, rồi hướng dẫn Toán phải nhanh chóng
triệt thối về hướng Đông Đông Bắc, khoảng 200 mét, ở đó có một bãi tranh, nằm yên đó,
chờ để triệt xuất.
(Triệt xuất các Toán Thám Sát Delta)
26
Toán đi được một chặng đường thì thấy hai chiếc Trực Thăng Gunship bay đến, đảo vòng
vòng rồi thay nhau xả súng liên tục, dữ dội từng tràng đạn đại liên xuống vị trí Toán chạm
địch vừa qua.
Gunship vừa đi thì một phi tuần Skyraider lại xà xuống oanh kích, từng khối lửa bùng
lên, sáng rực cả trời chiều. Chắc hẳn là chẳng còn một mống vẹm nào có thể sống sót
được.
Chiếc Trực Thăng UH.1B tròng trành đôi ba lần, rồi đáp xuống bãi tranh. Toán ùa ra, lao
nhanh lên phi cơ. Chiếc trực thăng cất cánh bay vút lên trời cao, xa dần, xa dần hướng
mặt trời lặn, còn le lói vài tia sáng yếu ớt, đang từ từ mờ nhạt trong buổi chiều tà.
Trên đường về, đúng là vui như Tết. Hai lần “tao ngộ” mà chúng tôi vẫn bình an!
Cảm ơn Trời Phật!
***
8)- Mật khu An Lão
“Tiếng già nhưng núi vẫn là non” (Chơi núi An Lão Nguyễn Khuyến)
Khoảng tháng 9 năm 1969, các Toán Thám Sát của Trung Tâm Hành Quân Delta được
đưa từ Nha Trang ra Phi Trường Đệ Đức. Đây là Phi Trường dã chiến của Quân Đội Hoa
Kỳ. Đang mang các trang bị cá nhân vào lều bạt thì tôi đã nghe Thiếu Úy Thạch Thon,
Trưởng Toán 6 Thám Sát rỉ tai: “kỳ nầy sẽ hoạt động vùng Mật Khu An Lão, theo nhu
cầu của Quân Đoàn II”.
Mật khu An Lão là chỗ nào?
Nhớ mang máng hồi còn học Trung Học, Ông Thầy dạy Việt Văn có giảng bài “Chơi Núi
An Lão” của Nguyễn Khuyến, bọn học sinh chúng tôi gọi đùa tác giả là Ông già gân, bởi
vì câu cuối bài thơ là: “Dẫu già mà đã hơn ta chửa?. Chống gậy lên non bước chẳng
chồn”. An Lão của Nguyễn Khuyến ở đâu ngoài Bắc, còn An Lão ở đây là An Lão Bình
Định. Dĩ nhiên, Ông Lão còn chịu chơi, huống chi bọn tôi còn trẻ, sá chi cái An Lão nầy.
Nhưng trước sau gì cũng phải xem lại Bản Đồ một chút cho chắc ăn. Thói quen của những
người Chỉ Huy là ưa xem Bản Đồ, mà phải xem kỹ Bản Đồ Quân Sự. Binh thư dạy rồi:
“Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa”. Xem Bản Đồ để biết địa lợi, khai thác địa lợi là điều
cần thiết của cấp Chỉ Huy.
27
(Thám Sát Delta và Tiểu Đoàn 91 BCD
chờ máy bay ở Phi Trường Nha Trang để đi
Hành Quân ở mật khu An Lão)
Hôm sau, vào Trung Tâm Hành Quân, nhìn vào tấm Bản Đồ trải rộng trên cái giá gỗ, tôi
quan sát thấy mật khu An Lão nằm về hướng Tây của Thị Trấn An Lão, Hưng Long và
Xuân Phong, cách ngăn bởi một con suối chạy từ hướng Bắc đổ ra biển ở miệt Xã Hoài
Hương, thuộc Quận An Nhơn. Đây là các Thị Trấn nhỏ miền thượng du Tỉnh Bình Định.
Đường bộ vào đây nối liền từ Quốc Lộ 1 bằng Tỉnh Lộ 629 tại Thị Xã Bồng Sơn. Địch
thường đưa quân từ mật khu An Lão để bao vây tấn công vào các Thị Trấn nầy rất gắt
gao, có lẽ chúng muốn nhổ sạch hết toàn bộ mà không nhổ được.
Hướng Tây Bắc mật khu An Lão là Quận Ba Tơ, nơi đây cũng có một Trại Ba Tơ của Binh
Chủng Lực Lượng Đặc Biệt đồn trú. Quận Ba Tơ nằm về hướng Tây Tây Nam Thị Trấn
Đức Phổ thuộc Tỉnh Quảng Ngãi. Về hướng Tây Tây Nam An Lão là Tỉnh Kontum.
Hướng chính Nam là Quốc Lộ 19, con đường nối liền Qui Nhơn – Pleiku, có Đèo An
Khê là nơi từ cuộc chiến tranh trước, Việt Minh đánh Tây nhiều trận xiểng liểng. Trong
thời điểm này tại An Khê, Việt cọng chưa làm được gì suy suyển phe ta. Hướng Đông
Nam là Quận Hoài Nhơn có hai Thị Trấn Bồng Sơn và Tam Quan nằm trên Quốc Lộ 1.
Tam Quan gần Sa Huỳnh thuộc Tỉnh Quảng Ngãi.
Về hướng Tây Tây Bắc Kontum, tôi thấy địa danh Attapeu một cao nguyên của Nam
Lào, và vùng Tam Biên: Việt Miên Lào. Đích thị là chúng nó đây rồi. Đường mòn Hồ
Chí Minh đưa Việt cọng đến cao nguyên nầy của Xứ Lèo. Từ đó chúng đổ xuống hướng
Đông là vào mật khu Đỗ Xá, phía Tây Quảng Ngãi và hướng Đông Nam vào Tân Cảnh,
Dakto. Hồi học lớp Đệ Tứ tôi có nghe Ông Thầy dạy Địa Lý nói tới Mọi Đá Vách ở vùng
nầy, được Ông Quan Nguyễn Thân cho ăn đường phèn mà tưởng là đá, nên xin hàng.
Mấy năm nay không nghe nói gì tới tình hình chiến sự ở Đỗ Xá. Về phía Nam Đỗ Xá là
mật khu An Lão.
Căn cứ trên Bản Đồ cho thấy, mật khu An Lão là một vị trí chiến lược quan trọng. Chúng
có thể rút về phía Tam Biên, nếu bị tấn công dữ dội. Chúng có thể uy hiếp Kontum hay
Quốc Lộ 14 nối Kontum và Pleiku, uy hiếp An Khê, gây áp lực trên Quốc Lộ 19, hoặc tấn
28
công Sa Huỳnh, cắt đứt Quốc Lộ 1. Quân Đoàn II quan tâm vào vùng nầy là chí lý, chí
lý vô cùng.
Tôi rời khỏi Trung Tâm Hành Quân, ngẫm nghĩ càng thấy cái vô cùng chí lý của Bộ Tư
Lệnh Quân Đoàn II.
Và rồi, một cuộc hành trình vào mật khu Việt cọng khá hào hứng, và cũng không thiếu
nguy hiểm, đổi mạng như chơi. Nghĩ tới đó, tôi không sợ mà lại tự cười thầm tự tin.
Theo đúng thủ tục thường lệ, sau khi Toán nhận lệnh, tôi cầm tấm Bản Đồ đã được khoanh
vùng hoạt động, leo lên Trực Thăng đi bay để quan sát khu vực và tìm chọn bãi đáp cho
Toán. Hôm sau, mọi chuẩn bị lương khô, súng đạn, thuốc men đã hoàn tất đầy đủ, trước
khi lên đường Toán đã đến Trung Tâm Hành Quân để trình bày kế hoạch trước Chỉ Huy
Trưởng và các Trưởng Ban 2, Ban 3. Dĩ nhiên, ngoài bốn chinh nhân da vàng mũi tẹt còn
có hai bạn đồng minh chổng mỏ ngồi nghe, bên cạnh có Thông Dịch Viên cùng ngồi với
họ.
Một số Toán Thám Sát Delta của Thiếu Úy Cao Kỳ Sơn, Trần Bá Lễ, Phan Anh đã vào
trận mấy hôm nay rồi. Toán tôi đang chuẩn bị tiếp nối.
Trực Thăng đưa Toán thâm nhập vào mạn Nam, trong vùng trách nhiệm ở mật khu An
Lão vào khoảng xế chiều Toán di chuyển về hướng Tây Bắc chừng tiếng đồng hồ thì
dừng lại bố trí nghỉ qua đêm. Địa thế ở đây thật hiểm trở, rừng rậm xen lẫn vách đá cheo
leo cao nghệu. Di chuyển phải hết sức thận trọng, dò dẫm từng bước, lần theo các bậc
đá, vịn vào các thân cây non hay kéo đẩy giúp nhau mới đi được. Một ngày, hai ngày
chầm chậm, lặng lẽ trôi qua, Toán chưa tìm thấy hay phát hiện được gì cả
về mọi họat động của địch..
Rạng sáng hai hôm sau, Toán tiếp tục di chuyển theo hướng Tây Bắc, cũng đi thật chậm,
chú ý quan sát kỹ các dấu vết trên lộ trình, qua từng đồi cây, con suối.
Có một điều Toán tin chắc là Quân Đội VNCH chưa từng vào mật khu nầy hành
quân, thành ra Việt cọng thường huyên hoang, tự phụ, cho rằng mật khu An Lão là vùng
bất khả xâm phạm và cũng chính vì thế mà tình báo của ta không nắm rõ tình hình quân
số, đơn vị địch hoạt động trong mật khu này. Do vậy mà hôm nay mới có sự hiện diện
của các Toán Thám Sát Delta.
Gần cuối ngày, khi Toán đang đi lần xuống một trũng rừng thì Toán đã phát hiện hai con
đường mòn chạy theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Những con đường mòn còn tươi rói,
có nghĩa là địch đang sử dụng. Toán men theo một trong hai con đường mòn, sau đó
không lâu, thì lại thấy một con đường lớn, có dấu vết chạy của xe Molotova.
Tôi suy nghĩ không ít về những con đường xe nầy. Xe về tới đây là coi như đã tiến sâu
vào lãnh thổ nước ta, nó đâu còn chỉ di chuyển trên vùng biên giới Việt – Lào. Từ chỗ có
đường xe nầy tính ra tới bờ biển chưa tới 25 dặm. Bọn chúng lộng hành đến thế hay sao?.
Sau khi báo cáo cấp tốc mọi chi tiết về Trung Tâm Hành Quân, Toán được lệnh dừng
chân qua đêm, chọn chỗ an toàn, kín đáo, trong tầm quan sát để theo dõi mọi hoạt động
địch.
29
Có lẽ Trung Tâm Hành Quân đã thu thập một số tin tức do các Toán Thám Sát Delta hoạt
động trong các khu vực kế cận gởi về, phối kiểm và đúc kết đã xác định được lực
lượng địch quân ở đây không phải là ít. Vì vậy, rạng sáng hôm sau, Toán nhận được công
điện phải bám sát đường mòn, tìm chỗ thuận lợi tổ chức phục kích bắt sống tù binh để
khai thác tin tức, nhất là danh tánh, quân số và các kho tàng, căn cứ địa của bọn chúng…
Nhận lệnh xong, xem Bản Đồ, đối chiếu thực địa, tôi bàn thảo sơ lược kế hoạch phục
kích cùng hai bạn Đồng Minh. Có ba điểm căn bản: – Phải là con đường địch đang xử
dụng. – Vị trí phục kích thuận lợi, có hiệu quả, dễ dàng bắt sống được địch. – Cuối cùng,
khi nổ súng rồi là coi như Toán đã bị lộ, phải rút nhanh. Cần biết rõ con đường rút và
bãi triệt xuất, nơi trực thăng sẽ đón Toán.
Khu nầy là rừng già, phục kích trong rừng già thì tốt, nhưng khi nổ súng rồi, phải triệt
thoái nhanh tới chỗ khoảng trống, bãi tranh để trực thăng có thể đáp xuống bốc về dễ
dàng.
Toán chọn lựa địa điểm phục kích gần một con suối. Bên kia con suối, hướng chính Đông,
cách khoảng 200 đến 300 mét, tính theo đường chim bay có một hai khoảng trống, có thể
là đồi tranh hay rẫy bỏ hoang của người Thượng. Các bộ lạc ở đây thuộc giống người
H’rê, sống đời sống du canh, phá rừng làm rẫy, một vài mùa lại bỏ đi nơi khác. Đoạn
đường di chuyển từ nơi phục kích đến đó không xa lắm, kịp cho Toán bôn tập tới đó.
(Trước giờ xâm nhập)
Nắm chắc địa thế, lập xong kế hoạch phục kích, và rút lui, tôi báo cáo tất cả cho Trung
Tâm Hành Quân để theo dõi và yểm trợ khi cần.
30
Toán nằm trải dài chừng 50 mét, dọc theo đường mòn, núp sau các tảng đá, gò mối, gốc
cây rừng, cách khoảng năm mét, đạn đã lên nòng, tất cả hướng mắt về trước mặt, đúng
tầm sát thương của vũ khí.
Chờ địch chừng 2 giờ đồng hồ thì chúng xuất hiện, ngang nhiên đi trên con đường mòn.
Đi đầu là một Toán khoảng mười tên, cứ mỗi hai tên gồng gánh một bao gì đó gói trong
tấm bạt dầu, chúng tôi không rõ là hàng gì, có thể lương thực hay vũ khí, đạn dược? Gánh
hàng không nặng lắm vì chúng vừa đi vừa nói chuyện. Có thể chúng rất chủ quan, coi
như đây là vùng đất thánh của chúng, như chưa từng bị tấn công, phục kích bao giờ.
Khi chúng vừa tới ngay tầm xạ kích của Toán thì bỗng dừng lại. Tôi nghĩ thầm: “Ồ!
không lý mình hên vậy?” Và, chỉ mới dự định cho nổ súng thì thấy có một tên phía sau
đang khó nhọc đi tới. Tôi cười thầm trong trí: “một con vịt đẹt”, tiếng gọi đùa như khi tôi
còn sinh hoạt trong Gia Đình Phật Tử hay Hướng Đạo, mỗi khi đi Cắm Trại, thường gọi
những người đi chậm, lẹt đẹt phía sau. Vậy thì không phải chúng nghỉ mệt mà chỉ dừng
lại chờ tên đi sau.
Chờ con vịt đẹt tới gần bọn chúng, Toán bắt đầu khai hỏa. Bốn cây XM.16, hai cây XM.18
nổ ran. Bốn tên gục tại chỗ, mấy tên khác vừa nổ súng phản công vừa lủi vô rừng chạy
mất. Con vịt đẹt quay đầu tháo lui, nhưng không kịp rồi! Hai ông bạn đồng minh đã nhanh
chóng xông ra, vật cổ, đè “con vịt đẹt” xuống, còng tay, kéo nó đứng lên chạy lẩn vào
rừng để cùng theo Toán rút lui về hướng đã định.
Khoảng nửa giờ sau, khi Toán đi quá nửa con đường đến bãi triệt xuất, thì nghe có nhiều
tiếng súng nổ ở chỗ Toán đã phục kích. Tôi yên tâm. Bấy giờ phía trên đầu Toán, chiếc
L.19 hướng dẫn chúng tôi tới Bãi, và 4 chiếc Trực Thăng UH.1B đang vần vũ. Thông lệ
thì luôn có một chiếc CNC của Chỉ Huy Trưởng, hai chiếc Gunship bao vùng, yểm trợ,
sẵn sàng xạ kích bằng Hỏa tiễn, Đại liên để an toàn bãi và một chiếc có nhiệm vụ bốc
Toán.
Toán đến bãi an toàn, không phải chờ đợi, một chiếc Trực Thăng sà xuống đón Toán
trở về.
Đẩy tên tù binh đang bị trói nằm xuống sàn, chúng tôi ngồi dựa lưng vào nhau, muốn
cười mà không cười nỗi. Mệt quá!
Về đến căn cứ Hành Quân, giao xong tù binh cho Ban 2 để tạm thời khai thác, trước khi
chuyển đến Trung Tâm Thẩm Vấn Tù Binh của Quân Đoàn II, tôi đi thẳng xuống căn lều
Câu Lạc Bộ để kiếm món gì ăn và uống một lon RootBeer cho đã thèm, vì mấy ngày nay
chỉ dùng toàn lương khô, nước lạnh. Chán chết được.
Ngày hôm sau, Trung Tâm Hành Quân Ban 2 cho biết tên tù binh do Toán bắt được là Bí
Thư Huyện Ủy Huyện Xuân Phong, vừa đi B trên đường trở về. Y khai, hiện có 2 Tiểu
Đoàn của Công Trường 7 đang ẩn trú tại mật khu An Lão, và trong tương lai Công Trường
9 từ Dakto, Tân Cảnh cũng sẽ di chuyển về đây để lập mặt trận tấn công các Thị Trấn
Tam Quan, Bồng Sơn, Đức Phổ.
31
Dĩ nhiên, trước mọi tin tức nóng hổi đã được cung cấp thì đã có cấp trên lo liệu. Còn tôi
sau khi hoàn thành “mission imposible” ngày ngày đón xe Lam ra Quán tranh, ở đầu Thị
Trấn Bồng Sơn trên Quốc Lộ 1 để uống cà phê, nghe nhạc. Cà phê ở đây uống cũng tạm,
còn nhạc thì máy móc ở các Quán quê nầy chỉ nghe cho nó vui vui, đỡ buồn, đâu có thể
đòi hỏi âm thanh phải như ở Nha Trang, Saigon.
Nếu không có nhu cầu Toán 3 nhảy vào một khu vực khác thêm lần nữa, thì chờ khoảng
hơn tuần lễ, khi các Toán Thám Sát Delta, hiện đang hoạt động ở những vùng kế cận, rút
ra hết, thì Trung Tâm Hành Quân Delta sẽ cuốn gói trở về lại Nha Trang, chấm dứt những
ngày thâm nhập, phục kích, bắt sống địch, triệt xuất đem về khai thác tin tức… như trong
phim ciné…
***
9)- Chiến trường Tam Biên
“mong manh cánh lan rừng xanh bên thác uốn quanh”
“Chiều lên Bản Thượng”
Đâu phải lần nầy đơn vị tôi mới lên rừng. Dù ở Tiểu Đoàn hay Thám Sát Delta, “lên
rừng” là những cuộc hành quân thông thường và sở trường của chúng tôi. Ba Lòng, A-
Shau, An Lão, Dakto… nơi nào không là núi rừng? Chỉ có thời gian Tết Năm Mậu Thân
mới đánh nhau với địch ở Thành Phố Nha Trang, Gia Định, Saigon.
Địch ở trên rừng, chúng tôi lên rừng, địch về thành phố, chúng tôi về thành phố. Nơi nào
có địch, cấp trên điều là chúng tôi tới.
Phía Tây Quê Hương Việt Nam, núi rừng xanh ngắt trùng điệp, nhìn màu xanh Quê
Hương, vừa thấy đẹp, vừa thấy buồn, vừa thấy thương…
Chuyến đi nầy thì thấy thương hơn, lên tới vùng Tây Bắc Kontum, qua khỏi những cái
tên mà người Thành Phố đã nghe tới nhiều, nhưng vẫn còn thấy lạ lẫm: Dakto, Dak-Bla,
Ban-Het, Tân Cảnh, Tu-Morông, hay các Trại Lực Lượng Đặc Biệt Polei-Kleng, Plei-
Djereng kế cận vùng Tam Biên. Tam Biên là khu vực giáp ranh của ba biên giới: Việt,
Miên, Lào.
Vào khoảng tháng 2 năm 1971, gần tới Tết con Heo, năm Hợi. Trước ý đồ xảo trá của
bọn giặc cọng, chúng muốn tái diễn cái trò lấn đất dành dân, nên đã chuyển quân tràn qua
biên giới ngỏ hầu mở ra các cuộc tấn công xâm chiếm Thị Xã Kontum hay một vài Quận
Lỵ lân cận để làm áp lực trong cuộc Hội Đàm 4 bên tại Paris.
Việt cọng đã đưa quân theo con đường mòn Hồ Chí Minh, từ Lào, từ Cambodia qua ẩn
trú sát nách biên giới trong vùng rừng rú lãnh thổ trách nhiệm của Quân Đoàn II. Để xác
định chính xác về đơn vị, cấp số và vùng trú quân của lực lượng địch, ngỏ hầu lập kế
hoạch tấn công, tiêu diệt hay phòng thủ. Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II đã trình xin Bộ Tổng
Tham Mưu đưa Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù tăng phái cho Sư Đoàn 22 Bộ Binh để hành
quân thám sát kiểm chứng, xác minh.
32
Toàn bộ Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù được không vận đến Phi Trường Kontum, và lập
căn cứ Hành Quân ở mạn Tây sát bên hông Phi Đạo.
Vào những ngày cận Tết, Kontum trời se lạnh, thỉnh thoảng có những trận mưa rào, làm
cho những chiến binh đang buồn vì phải xa Sài Gòn như chúng tôi lại càng buồn hơn. Từ
căn cứ hành quân, lội bộ gần cả cây số mới tới khu phố Hàng Keo, nằm cạnh bờ sông
Dak-Bla, để uống một ly cà-phê đen nóng và nghe vài ba bản nhạc giải khuây, ngoài ra
chẳng có gì làm vui trên cái xứ cao nguyên hẻo lánh này.
Phi Trường Kontum
Đêm Giao Thừa, nằm trải dài trên chiếc ghế bố, thỉnh thoảng tôi nghe từng tràng đạn
pháo nổ dòn bên tai, ngoài trời thì liên tục được thắp sáng bởi những trái hỏa châu, đầu
óc tôi cứ bị đè nặng trong không khí chiến tranh. Chẳng biết đến bao giờ Đất Nước tôi
mới không còn bom rơi đạn nổ. Tôi ngủ thiếp đi lúc nào không hay.
Sáng vừa thức dậy, Thượng Sĩ Mai Xuân Hùng, Thường Vụ Đại Đội, báo tin cho hay
hôm nay sẽ có Biệt Đoàn 5 Văn Nghệ Trung Ương ở Sài Gòn lên trình diễn ủy lạo. Tin
thật vui mà lại quá buồn cười. Đơn vị tôi đóng ở ngã tư An Sương, Hốc Môn, Sài Gòn.
Biệt Đoàn 5 Văn Nghệ Trung Ương cũng ở Sài Gòn, sao không cho nghe hát ở dưới đó
mà kéo nhau lên rừng, bên hát, bên nghe?
Mấy ngày qua, một hai Toán Thám Sát đã xâm nhập hoạt động trong các vùng gần Tam
Biên, nằm về hướng Tây Nam Dakto, cách
Trại Polei-Kleng về hướng Tây Bắc khoảng 20 cây số. Các Đại Đội thì đang túc trực ứng
chiến tại căn cứ Hành Quân.
Tối lại, ngoài các Sĩ Quan, Binh Sĩ trực hành quân và canh gác, bốn Đại Đội tập trung
ngồi phía trước cái sân khấu dã chiến, được kê cao bằng những tấm palette nhôm của
Quân Đội Mỹ, đặt trên các thùng “phuy” chứa đầy nước, phía sau là căn lều bạt để các
33
Ca Nghệ Sĩ làm chỗ trang điểm, thay đổi y phục. Ban Nhạc đánh trống thổi kèn trên ấy,
Ca Sĩ hát trên ấy, chúng tôi ngồi dưới đất, ngưỡng cổ hào hứng vừa nghe vừa nhìn.
Các Ca Sĩ lần lượt xuất hiện: Phương Hồng Quế, Phương Hoài Tâm, Phương Dung,
Thanh Mai, Chế Linh, Hùng Cường, Duy Khánh v.v… Các Nữ Ca Sĩ cũng mặc đồ trận,
quần áo rằn ri Biệt Động Quân, Nhảy Dù, Biệt Cách Dù. Mà có gì lạ đâu, các Cô là Binh
1, Hạ Sĩ danh dự của các Quân Binh Chủng mà. Phó Tổng Thống Trần Văn Hương cũng
là Hạ Sĩ danh dự đấy. Nghe giới thiệu lon lá như thế, chúng tôi rất vui và vỗ tay hoan hô
liên tục, không dứt.
Duy Khánh xuất hiện trên sân khấu. Rất ít người Huế không biết Duy Khánh. Chúng tôi
thì rành sáu câu bởi vì khó có ai hát hay hơn Duy Khánh với bài “Xuân nầy con không
về!”
Hồi chưa nhập ngũ, gần Tết, tôi cũng bắt chước Duy Khánh: “Con biết bây giờ Mẹ chờ
em trông, nhưng nếu con về bạn bè thương mong”. Ông Anh con ông cậu tôi, giáo sư,
nghe tôi hát, phán một câu: “Thằng ni bất hiếu. Cha mẹ phải hơn bạn bè chớ !”.
Có lẽ ông Anh tôi ngoài tuổi nhập ngũ, chưa từng đi lính, nên không rõ tình Đồng Đội
như thế nào. Sinh ra ta là Cha Mẹ, cứu mạng ta giữa chiến trường là Đồng Đội. Chưa
từng đi đánh giặc, chưa từng gặp gian nguy, thập phần sinh tử nên khó biết cái tình Đồng
Đội ấy thiêng liêng, cao quí như thế nào. Càng xông pha trận mạc, vào sinh ra tử, tôi hiểu
tâm trạng người lính trong bài hát hơn Ông Anh của tôi.
Sau đêm trình diễn, Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương trở về Sài Gòn ngay sáng hôm sau.
Chúng tôi đón Xuân không có “thịt mỡ dưa hành, câu đối đỏ”, thiếu cả tiếng pháo đì
đùng. Vì Tết Mậu Thân mà bây giờ có lệnh cấm pháo. Đồng bào cũng nản “quân giải
phóng” nên không ai còn muốn đốt pháo làm chi để Việt cọng lợi dụng vào Thành Phố
mà giết Đồng Bào.
Ba ngày Tết lặng lẽ trôi qua. Buổi sáng Mồng 4, Trung Úy Thứ, Sĩ Quan phụ tá Ban 3
Hành Quân thông báo: Đại Đội 4 có lệnh chuẩn bị hành quân.
Toán 5 Thám Sát Delta, đã chuyển công điện báo cáo là vừa khám phá trên đường mòn
Hồ Chí Minh, ở gần ngã ba biên giới, ban đêm có nhiều đoàn xe Molotova và bộ đội Việt
cọng từ Lào và Cambodia di chuyển về hướng Đông Đông Nam, trên phần lãnh thổ của
Nước ta, dẫn đến gần các căn cứ 5 và 6 trong vùng trách nhiệm của Sư Đoàn 22 trú đóng
tại Tân Cảnh.
Theo yêu cầu của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn II. Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù có nhiệm vụ
tổ chức phục kích tiêu diệt đoàn xe, bắt sống tù binh để khai thác tin tức.
Đại Đội 4 Biệt Cách Dù được giao trách vụ này. Đại Đội Trưởng là Đại Úy Đào Minh
Hùng, còn tôi là Đại Đội Phó.
Chiều hôm sau, Đại Đội được trực thăng vận vào vùng hành quân. Bãi đổ bộ nằm ở hướng
Nam khu vực Tam Biên, cách đường biên giới Cambodia về hướng Tây chừng 1 km. Hai
Trung Đội 3 và 4 do tôi chỉ huy được đổ xuống trước để an ninh bãi, không lâu sau đó là
Ban Chỉ Huy Đại Đội và hai Trung Đội 1 và 2. Đại Đội di chuyển chừng cây số thì trời
bắt đầu tối nên dừng quân nghỉ đêm.
34
Sáng dậy, Đại Đội chia ra hai cánh quân, tiến song hành về hướng Đông Bắc để tiếp cận
con đường mòn do Toán 5 Thám Sát phát hiện.
Nơi đây chắc hẳn là chốn an toàn của địch, vì trên đường di chuyển Đại Đội đã nhìn thấy
có rất nhiều đường dây điện thoại của chúng giăng đầy chằng chịt dọc theo các cành cây,
thỉnh thoảng bắt gặp những căn lều trại và bếp núc đã bị bỏ hoang bên những khe suối,
dưới những cụm rừng âm u, hoang lạnh.
Sẵn sàng lâm trận
Đi gần nửa ngày đường, vừa tiếp cận con đường mòn, đang dàn quân bố trí, thì Tổ khinh
binh tiền đạo trông thấy một tốp bộ đội Việt cọng đang di chuyển ngược hướng, nên đã
nổ súng tác xạ. Bọn địch dạt qua mé rừng bên phải phản công mãnh liệt, nhưng cuối cùng
bọn chúng tháo chạy, để lại 05 xác chết tại hiện trường. Có thể đây cũng là đám tiền sát
viên của chúng.
Sợ lộ mục tiêu sau khi chạm địch, Đại Úy Hùng cho lệnh Đại Đội di chuyển lên hướng
Bắc chừng 500 mét thì dừng lại. Sau khi quan sát địa thế, Đại Đội dàn trải đội hình dọc
theo con đường mòn chạy từ Tây sang Đông. Tôi ra lệnh Thiếu Úy Nguyễn Kim Long
Trung Đội Trưởng Trung Đội 3 đưa 2 khinh binh bò ra giữa mặt đường để chôn các trái
mìn chống chiến xa M.15 dưới các vết xe lăn cũ.
Màn đêm xuống dần, rừng êm ắng, lặng yên và mù mịt tối. Tất cả Binh sĩ ghìm súng nằm
chờ đợi. Ở một vài khoảng trống trong khu vực, thỉnh thoảng được những trái hỏa châu
trên bầu trời tỏa sáng lờ mờ rồi dần dần tối hẳn.
Ba tiếng đồng hồ đã trôi qua, không một động tĩnh, nhưng không vì thế làm nản lòng các
chiến sĩ Đại Đội 4 Biệt Cách Dù, tất cả vẫn ghìm súng trong tư thế sẵn sàng đối phó với
địch quân.
Tôi nhìn đồng hồ, đã 12 giờ 30 khuya, vừa định lấy bi đông uống một ngụm nước cho
tỉnh táo, thì ầm, ầm, ầm, những tiếng nổ vang dội và chuyển động cả một khu rừng. Ba
chiếc xe Molotova của địch đã bị trúng mìn, nằm lật nghiêng, choáng hết cả mặt đường.
35
Tiếng la hét của đám Việt cọng, tiếng súng Đại liên, XM.16, M.79, xen lẫn tiếng đạn
AK.47, CKC đã làm cho sự tịch mịch của khu rừng trở nên náo động, ầm ĩ.
Đêm trôi qua rất nhanh. Trời vừa hừng sáng, sau khi kiểm chứng và báo cáo kết quả tổn
thất của địch bao gồm: 15 cán binh cọng sản bị sát hại, 03 xe molotova và rất nhiều quân
dụng, lương thực đã bị phá hủy hoàn toàn, phía ta 5 chiến sĩ bị thương, trong đó có tôi bị
một mãnh tạc đạn cắt vào cổ tay và 1 Hạ Sĩ Quan tử thương về Bộ Chỉ Huy Hành Quân.
Đại Đội khởi sự di chuyển trở lại hướng Tây Nam, vừa băng ngược qua con đường mòn,
di chuyển lên hướng ngọn đồi trước mặt để đến bãi triệt xuất, thì bất ngờ đạn địch từ trên
bắn xuống xối xả, nhưng may nhờ sườn đồi có nhiều đá tảng và cây rừng lớn che chắn,
nên chỉ làm bị thương 2 Hạ Sĩ Quan Tiểu Đội Trưởng và 5 Binh Sĩ.
Đại Đội ở vị thế bất lợi hơn địch, Việt cọng ở trên cao. Đại Đội tấn công lên đồi nhiều
đợt mà không lên được, hao hụt không ít. Chuẩn Úy Lương Hữu Yên, Trung Đội Trưởng
Trung Đội 2, đã bị tử thương, xác còn nằm trên sườn đồi, và không lâu sau đó Chuẩn Úy
Trần Thanh Đồng đang tiến quân lên đỉnh đồi ở cánh phải, thì cũng cùng chung số phận,
tôi đã hai lần điều động binh sĩ cố bò lên lấy xác, nhưng vì bị hỏa lực địch bắn càng quét
dữ dội, nên không thể, Đại Úy Hùng bảo tôi báo cáo tình hình chạm địch và tổn thất về
Bộ Chỉ Huy, đồng thời khẩn cấp xin máy bay oanh kích đến dội bom vào vị trí địch ở
trên đồi cao.
Tiếng động Trực Thăng bay vòng trên khu vực, qua máy truyền tin PRC.25, tôi nghe rõ
tiếng Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Phan Văn Huấn, đang liên lạc hướng dẫn các Phi Tuần
Skyraider, A.37, trên đường bay đến để oanh kích chính xác vào tọa độ mục tiêu của địch.
Sau các Phi tuần oanh tạc thì Phi Đội Trực Thăng võ trang xuất hiện, bay vòng quanh,
bắn xối xả, liên hồi xuống trên đầu địch. Vừa chấm dứt các đợt oanh kích, tác xạ, hai
cánh quân hai mặt của Đại Đội, theo lệnh của Đại Úy Hùng, đã đồng loạt xung phong,
tràn lên chiếm lĩnh đỉnh đồi. Xác Chuẩn Úy Yên và một số Binh sĩ đã được Thiếu Úy
Long đưa một Tiểu Đội khiêng vác mang theo. Riêng thi thể Chuẩn Úy Đồng, vì nằm
gần vị trí địch, nên đã không còn tìm thấy xác sau khi các chiến đấu cơ đã dội bom yểm
trợ khốc liệt.
Quân địch hoàn toàn tan rã, bỏ thây rãi rác chung quanh đồi, 20 xác đếm được, còn một
số “chém vè” cao bay xa chạy, tịch thu rất nhiều loại vũ khí, máy móc và quân dụng.
Vậy rồi, ngay chiều hôm đó, Đại Đội vừa tải thương vừa di chuyển đến bãi triệt xuất. Tới
điểm hẹn, chờ không bao lâu thì một Đoàn Trực Thăng đáp xuống thấp. Từng Trung Đội
đưa xác tử sĩ và thương binh lên trước, xong thay nhau nhảy lên các chiếc kế tiếp. Lần
lượt Đại Đội đã được bốc đưa về lại Căn Cứ Hành Quân ở Phi Trường Kontum.
Cách hành quân của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù thường như thế. Thả các Toán Thám
Sát vào các mật khu của địch, thông thường là ở những vùng dọc theo biên giới, núi non
hiểm trở, ngoài tầm tác xạ, yểm trợ của Pháo Binh, để khám phá các căn cứ, kho tàng,
địa đạo và lực lượng của Việt cọng. Nhưng, nếu cần thiết thanh toán mục tiêu, hành quân
tiêu diệt, phục kích, thì các Đại Đội xung kích sẽ đảm nhận trách nhiệm.
Đây cũng là một trong hai cuộc phục kích hiếm hoi trong lòng địch, nơi các mật khu bất
khả xâm phạm của bọn chúng, trước đây vào năm 1968 tại thung lũng Ashau, mà chỉ có
36
lực lượng duy nhất là Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù mới có thể lập nên thành tích, công
trạng lịch sử này.
Kontum là đây! Tam Biên là đây!
Lòng chúng tôi vui. Và trong niềm vui trở về, tôi bỗng nhớ một bài hát: “Đường lên núi
rừng! Sao hãi hùng”.
Hãi hùng là tự người khác đem đến cho ta, từ con người, không phải từ thiên nhiên.
Người yêu Quê Hương thì không thấy Quê Hương mình hãi hùng bao giờ!
***
Tiến vào trận địa
10)- An Lộc Địa
“Bình Long Anh Dũng!”
“An Lộc địa sử lưu chiến tích
Biệt Cách Dù vị Quốc vong thân”
*
1)-“Nhị thức Bộ binh, Thiết giáp”
Với ý đồ cưỡng chiếm Miền Nam của tập đoàn cọng sản Hà Nội. Mùa Hè năm 1972
cọng sản Bắc Việt đưa hai Binh Đoàn, đồng lúc tấn công Tây Nguyên (Kontum) và Khu
Phi Quân Sự (Vùng Giới Tuyến). Trước tình thế này, Bộ Tổng Tham Mưu đã phải xử
37
dụng đến lực lượng tổng trừ bị: Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến cho hai chiến trường
này.
Bất ngờ, tại Quân Khu III, trong đêm 06 tháng 4 năm 1972, từ bên kia biên giới
Campuchia, một Binh Đoàn 50 ngàn quân Việt cọng, bao gồm: 4 Sư Độ Binh, 1 Trung
Đoàn Chiến Xa, 1 Trung Đoàn Pháo và Phòng Không hiện đại, bất thần tấn công cường
tập, tràn ngập Quận Lỵ Lộc Ninh do Trung Đoàn 9 Sư Đoàn 5 Bộ Binh và Thiết Đoàn 1
Kỵ Binh trấn giữ.
Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh gom tất cả các lực lượng cơ
hữu còn lại là Trung Đoàn 7 và 8 Bộ Binh, tăng cường thêm Liên Đoàn 3 Biệt Động Quân
lập tuyến phòng thủ mới tại Thị Xã An Lộc để ngăn chận địch.
Ngày 13 tháng 4 năm 1972, Việt cọng xiết chặt vòng vây, bắt đầu tấn công bộ chiến với
nhị thức bộ binh và chiến xa vào An Lộc. Lực lượng phòng thủ tại đây đã quyết chiến,
chống trả mãnh liệt, tổn thất nặng nề, không phận đã bị địch quân khống chế, trực thăng
tiếp tế và tản thương không thể vào An Lộc được, tình thế vô cùng nguy nan.
Hội Đồng An Ninh Quốc Gia và Bộ Tổng Tham Mưu nhận định tình hình, cần phải tăng
cường gấp cho lực lượng phòng thủ, nếu chậm trể thì An Lộc sẽ thất thủ, và nếu tiền đồn
An Lộc lọt vào tay địch thì hai tiếng đồng hồ sau đó chiến xa địch sẽ tới Bình Dương và
Thủ Đô Sài Gòn sẽ bị đe dọa. Bộ Tổng Tham Mưu cuối cùng quyết định tung Liên Đoàn
81 Biệt Cách Dù và Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù vào tiếp viện.
Trong thời gian này tôi đang theo học Khóa Đại Đội Trưởng tại Trường Sĩ Quan Bộ Binh
Thủ Đức, thì được tin trong ngày 16 tháng 4, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù đã nhảy vào tiếp
viện, tăng cường cho mặt trận An Lộc và đã bắt tay được với các lực lượng bạn cố
thủ, đang trong tình huống hết sức nguy ngập, các tuyến phòng thủ đang bị “thủng” dần.
Sơ Đồ Chiến Trường An Lộc
Theo tin tình báo cho biết, Việt cọng đã cố tình tung 4 Sư Đoàn 5, 7, 9 và Sư Đoàn Bình
Long, ngoài ra còn tăng cường một Trung Đoàn Đặc Công, hai Trung Đoàn Pháo và
38
Phòng Không, hai Trung Đoàn Xe Tăng, đây là lần đầu tiên chúng xử dụng xe tăng trên
chiến trường Miền Nam, cố chiếm An Lộc trong vòng 5 đến 10 ngày, để ra mắt cái gọi
là Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Miền Nam Việt Nam của chúng.
Vừa suy tư về tin tức nóng bỏng này, vừa lo âu cho đơn vị của mình tham gia trận đánh
đang xảy ra ác liệt, tôi nôn nóng, băn khoăn vô cùng…Cũng may, một tháng qua mau thì
mãn khóa, tôi vội vàng về trình diện Bộ Chỉ Huy hậu cứ đơn vị tại Ngã tư An Sương,
Hốc Môn. Toàn bộ các Đại Đội Biệt Cách Dù đã vào chiến trường đã nửa tháng nay rồi,
mà không có tôi cùng chiến đấu, cùng chia sẻ gian khổ, nguy nan cùng đồng đội. Yên
lòng sao được.
Tôi cùng Thượng sĩ Phạm Văn Cứ cũng vừa đi tập huấn Taekondo trở về, nhận lệnh vào
chiến trường ngay ngày hôm sau. Xe Jeep của Liên Đoàn đưa chúng tôi đến Lai Khê nơi
Bản Doanh của Bộ Tư lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh, từ đó Trực Thăng UH.1B đã bốc thả
chúng tôi xuống bên ngoài Thị Xã, vùng Xa Cam. Để tránh phòng không của địch, bây
giờ chúng sử dụng cao xạ 37 ly (đạn nổ lần hai sau khi trúng mục tiêu), không còn dùng
12.7 như trước kia, Phi Công Việt Nam phải bay thật thấp, sát ngọn cây. Vừa tới bãi đáp
ngay giữa Quốc Lộ 13, chúng tôi nhảy liền xuống, cả hai men theo rừng cao su tìm đường
vào Đơn Vị, đang trú đóng ở giữa lòng Thành Phố. Lúc ấy trời vừa quá trưa.
Trên đường tiến vào Thành Phố Bình Long, nhà cửa cây cối điêu tàn, xơ xác, một vài nơi
lác đác những cột cháy đen còn đang bốc khói. Rãi rác xác địch nằm ngổn ngang, những
khuôn mặt măng sữa, chừng độ 14, 15 tuổi. Vượt qua tuyến phòng thủ của Trung Đoàn
8, Sư Đoàn 5 của Đại Tá Mạch Văn Trường, rồi băng qua Công Viên Hoàng Hôn, chúng
tôi đã đến Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Liên Đoàn đóng tại một căn phố lầu, bên cạnh
Cửa Hàng Tân Hoài Sương, trên Khu Phố đối diện Khu Chợ Bình Long.
Trình diện Trung Tá Phan Văn Huấn, Chỉ Huy Trưởng xong, tôi nhận lệnh làm phụ tá
Đại Đội Trưởng Đại Đội 1, Đại Đội Trưởng là Đại Úy Nguyễn Ích Đoan, đang phòng thủ
hướng Đông Đông Bắc, bên trái trục lộ chính Quốc Lộ 13, cửa ngõ Thành Phố, hướng đi
Lộc Ninh. Bấy giờ thì Lộc Ninh đã bị Việt cọng chiếm giữ mất rồi.
Bọn giặc cọng không thể tiên liệu được là đơn vị Biệt Cách Dù đã nhảy vào Thị Xã An
Lộc và đang mở các cuộc đột kích sở trường, thiện chiến để dành lại các phần đất đã lọt
vào tay chúng.
Thị Xã An Lộc trở thành bình địa
39
Các Đại Đội Biệt Cách Dù, phòng ngự ba hướng chính của Thành Phố. Đại Đội 1 giữ
hướng Đông Đông Bắc, Đại Đội 3 và 4 bố trí quân dọc theo Khu Nhà Thờ ở hướng Tây
và Tây Bắc, Đại Đội 2 là lực lương trừ bị, rải quân phòng thủ ở khu vực chợ về hướng
Nam cùng các dãy lầu phố kế cận Bộ Chỉ Huy Hành Quân của Liên Đoàn.
Tình hình bấy giờ là quân Việt cọng vẫn còn chiếm giữ một số khu vực trong Thành Phố.
Chúng đặt chốt trên các đường chính, trong các cao ốc còn sót lại ở hướng Đông Bắc và
Tây Bắc, phân chia từng Tổ 3 người để bắn sẻ, hay tác xạ B.40, B.41 ngăn chận các cuộc
chuyển quân, tấn công của các đơn vị Quân Lực Việt Nam Cọng Hòa.
Mặc dù các khu vực hướng Bắc đã lần lượt tái chiếm, nhưng lực lượng địch tại Đồn Cảnh
Sát Dã Chiến vẫn cố thủ, chúng dùng đại bác 57 và 75 trực xạ, nhưng cuối cùng với sự
yểm trợ hỏa lực của Không Quân Hoa Kỳ và kỷ năng tác xạ súng cối 81 ly chính xác,
hiệu quả của Trung Úy Cao Kỳ Sơn và Trung Sĩ Đỗ Đức Thịnh, cùng với lối tác chiến
chuyên nghiệp, gan dạ, Biệt Cách Dù đã tiêu diệt toàn bộ bọn chúng ngay trong chiều
ngày 18.4.1972. Tuy nhiên Biệt Cách Dù cũng đã phải ngậm ngùi trước sự hy sinh của
Chuẩn Úy Nguyễn Quang Khánh và một số đồng đội.
Một phần lớn dân chúng đã thoát ra khỏi Thành Phố, theo QL.13 chạy về hướng Saigon,
nhưng đồng bào bị Việt cọng pháo kích sát hại, một số bị chận lại ở Chơn Thành không
cho chạy nữa. Đồng bào chết giữa lửa đạn hay sao? cọng sản không quan tâm. Không lý
chúng làm Lễ ra mắt “Chính Phủ ma” ở một “Thành Phố ma”, Thành Phố không còn dân,
dân chúng đã bỏ chạy hay sao?
Ngày 19 tháng 4 năm 1972, Việt cọng bắt đầu mở cuộc tấn công mới, với ý muốn dứt
điểm Thành Phố, kết thúc trận đánh, thực hiện tham vọng giải phóng toàn bộ Thị Xà An
Lộc. Chúng đưa Trung Đoàn 141, Trung Đoàn 275 với Đặc công và Chiến xa T.54 yểm
trợ tấn công Đồi Gió, chúng áp dụng chiến thuật biển người, nhưng chúng đã gặp phải
sức kháng cự mãnh liệt của Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn văn Đĩnh chỉ
huy, ngoài ra chúng còn pháo kích dồn dập vào ngay Thị Xã và sau đó ào ạt tấn công từ
hai hướng Tây và Tây Bắc, nhưng chúng cũng đã bị các Chiến Sĩ 81 Biệt Cách Dù Đại
Đội 3, Đại Đội 4 và các Đại Đội Biệt Động Quân phản công triệt hạ nhiều địch quân,
thiêu hủy một số chiến xa, gây thảm bại cho bọn chúng.
Chiến xa địch bị bắn cháy khắp các ngã đường
40
Đến Ngày 4 tháng 5, một lực lượng địch, không rõ quân số, lợi dụng đêm tối, tấn công
vào phòng tuyến của Đại Đội 3 và 4 hầu mong dành lại những khu vực đã bị Biệt Cách
Dù tấn chiếm. Suốt một đêm giao tranh, chúng đã bỏ lại nhiều xác chết nằm vương vãi
bên ngoài giao thông hào. Đại Đội Trưởng Đại Đội 4 Đại Úy Đào Minh Hùng, bị trọng
thương và sau đó không lâu Đại Đội Phó Trung Úy Nguyễn Khoát Hải, bị mãnh đạn súng
cối trúng vào mắt, Trung Tá Phan Văn Huấn đã đưa tôi về đảm nhận chức vụ Đại Đội
Trưởng Đại Đội 4 Biệt Cách Dù.
Quân cọng sản áp dụng đúng chiến thuật của Napoléon: “tiền pháo hậu xung”. Trong nửa
đêm ngày 10, rạng sáng ngày 11 tháng 5 năm 1972, bọn chúng rót xuống Thành Phố 8
ngàn quả đạn pháo. Với hỏa lực đó không những Thành Phố An Lộc nhỏ xíu thành bình
địa, mà tất cả các đơn vị Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa sẽ bị tiêu diệt. Không một sức
đối kháng nào có thể tồn tại.
Mặc dù địch đã pháo xối xả, ác liệt vào Thành Phố chỉ trên 1 cây số vuông, nhằm hủy
diệt hoàn toàn binh lực của chúng ta, nhưng bọn chúng đã hoài công, chẳng mang lại
được kết qủa hay tổn thất gì đáng kể.
Các lực lượng cố thủ và tăng cường giải tỏa Thị Xã Bình Long, không phòng thủ tập
trung trong một khu vực tại trung tâm Thành Phố, mà đóng rãi rác trên một chu vi rộng
lớn, với các công sự, hầm hố kiên cố, vững chắc; hơn nửa lực lượng địch và ta lúc đó
cũng đang bố trí cận kề, nên địch không thể liều lĩnh hỏa tập để sát thương, gây tổn thất
nặng nề luôn cho bọn chúng.
Dứt các đợt pháo, theo hướng dẫn của của du kích địa phương, có cả đặc công và bộ binh
tùng thiết, theo đúng chiến thuật “nhị thức bộ binh, thiết giáp”, khoảng hơn 20 xe tăng
T.54 của địch tiến vào Thành Phố, theo ba hướng khác nhau. Hướng phòng thủ của các
Đại Đội Biệt Cách Dù đã tiên đoán và sẵn sàng chờ địch. Bộ binh, đặc công Việt cọng tiến
song song theo xe tăng, chúng vừa đi vừa bắn phá dữ dội.
Bấy giờ, về phía các Đại Đội Biệt Cách Dù phòng ngự, mìn chống tăng thiếu hụt. Một số
lớn đã được sử dụng trong các trận đánh trước, công việc tiếp liệu chưa cung ứng kịp. Vả
lại, loại mìn chống tăng hiện có, sức công phá còn yếu, chưa đủ để phá hủy toàn bộ xe
tăng địch. Trung Tá Phan Văn Huấn đã sáng chế ra một loại mìn chống tăng “thần kỳ”.
Theo lệnh của Ông, các Đại Đội đã xử dụng đạn đại bác 105 ly hay 155 ly không
nổ, đút vào đầu viên đạn một thỏi chất nổ TNT, gắn ngòi nổ mìn Claymore vào đấy, xong
đặt mìn trên các con đường trước tuyến phòng thủ, chờ xe tăng địch tới đúng vị trí, bấm
vào “con cóc”. Sức công phá của loại mìn chống chiến xa tự chế nầy đạt hiệu quả tối đa.
Không những xe tăng bất động, bị cháy, mà bộ binh tùng thiết cũng gánh chung số phận
và trên đường tạo ra một hố sâu rộng lớn đã làm cản trở đường chuyển vận của các xe
tăng bọn chúng.
Nhờ vào sáng kiến này mà hơn 10 chiến xa T.54 của địch đã bị các đơn vị Biệt Cách Dù
phá hủy, số chiến xa còn lại đã bị các đơn vị Biệt Động Quân, Nhảy Dù, Trung Đoàn 8
Bộ Binh, và Địa Phương Quân tác xạ tiêu hủy bằng hỏa tiễn M.72 và XM.202, thây địch
chết, bị thương nằm ngổn ngang, la liệt bên các xe tăng địch, trên khắp các ngã đường
trong Thị Xã Bình Long, An Lộc.
41
Trên hướng phòng ngự của Đại Đôi 2, hai chiếc T.54 trúng mìn tan xác tại chỗ, hai chiếc
còn lại đằng sau, quay mũi xe bỏ chạy lạc hướng, cũng đã bị các đơn vị Bộ Binh của
Trung Đoàn 8, Sư Đoàn 5 triệt hạ. Trước thất bại này, khả năng chiến đấu của chúng
không còn, các chiến sĩ Biệt Cách dù đã leo lên đứng trên chiến hào, trên các xe tăng địch
hoan hô chiến thắng của mình vang dội cả một vùng trời mù mịt khói lửa, đạn bom.
Đại Đội 3 Biệt Cách Dù reo mừng chiến thắng
trên chiến xa địch bị bắn cháy
2. Đuổi chuột…
(Đánh chiếm từng nhà)
Địch sau các cuộc tấn công qui mô, áp đảo, chúng không còn khả năng tấn công lớn nữa,
vì thế các Đại Đội Biệt Cách Nhảy Dù được lệnh “đuổi chuột từng nhà”, quét sạch địch
khỏi Thành Phố. Việt cọng tháo lui, đang ẩn núp trong các nhà dân bỏ hoang, chúng
chiếm cứ một vài cao điểm để bắn sẻ vào binh lính chúng ta. Ngoài ra, không ít cán binh
Việt cọng, sau khi đơn vị chúng bị đánh tan tác, bị đánh đuổi ra khỏi Thành Phố, chúng
bị kẹt lại nên cũng lẩn trốn trong nhà dân, chưa biết cách tấn thối như thế nào. Tuy nhiên,
vũ khí chúng vẫn còn trong tay, còn có thể gây nguy hiểm cho binh sĩ của chúng ta.
Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Phan Văn Huấn lệnh cho các Đại Đội Trưởng phải nhanh
chóng trừ khử toàn bộ bọn chúng. Sở trường chuyên nghiệp của Biệt Cách Dù bắt đầu
đem ra tái sử dụng. Các Toán, chờ trời vừa sụp tối là triển khai đội hình, “đục tường” tiến
từ nhà nầy qua nhà khác, tiêu diệt địch từng tên một bằng vũ khí cá nhân là dao găm, lựu
đạn. Trong trường hợp nầy, lựu đạn là loại vũ khí đắc dụng nhất, “đục tường” chỉ là một
cách nói. Việt cọng bắn phá Thành Phố một cách bừa bãi, không phân biệt mục tiêu quân
sự hay nhà ở của dân chúng, nên hầu hết nhà cửa đều bị sập hoặc hư nát. Nhờ vậy, các
Chiến sĩ Biệt Cách Dù đã lợi dụng những bức tường nứt đổ, những vách tôn, vách lá rách
nát, để tiến từ nhà nầy qua nhà khác. Lần hồi, nội vi Thành Phố không còn bóng dáng
địch. Chúng chỉ còn cầm cự vòng ngoài, thỉnh thoảng pháo kích đạn cối vu vơ vào Thành
Phố để cầm chừng.
42
Mục tiêu còn lại cuối cùng là Đồi Đồng Long. Để chuẩn bị cho cuộc tấn công tái chiếm
Đồi Đồn Long, trong lúc khai triển đội hình khi đến gần chân đồi với đầy dẫy cây rừng
hoang dại, các Chiến Sĩ Đại Đội 2 Biệt Cách Dù đã phát hiện một căn hầm, nằm khuất
lấp dưới những tấm ván gỗ và những cỏ cây xác xơ vì bom đạn,. Các Binh sĩ áp sát đến
miệng hầm, họ nghe vài ba tiếng động sột soạt nhỏ phát ra từ bên trong. Rất thận trọng,
họ chưa vội nổ súng hay tung lựu đạn mà chỉ phát lời kêu gọi đầu hàng, đồng thời cấp
báo ngay về Bộ Chỉ Huy Hành Quân, Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Phan Văn Huấn ra lệnh
Đại Úy Sơn cho Binh sĩ quan sát kỹ càng, có thể là địch quân mà cũng có thể là đồng
bào, nhưng bất kể họ là ai, với hơn hai tháng chiến trận xảy ra nơi đây, không lương thực,
nước uống, thì đâu còn sức đề kháng để chống cự, phải tìm mọi cách đưa họ ra khỏi căn
hầm đó. Và thật không thể tưởng tượng được, chỉ vài ba phút sau đó, có hai em bé gái
khoảng chừng 6, 7 tuổi bò ra, trên người chỉ còn những mảnh vải rách nát, tả tơi che thân,
đất bùn, ghét bẩn bám đen xì trên thân thể khô cằn, còm cỏi, chỉ còn da bọc xương, hai
mắt sâu hoắm trên một khuôn mặt hốc hác, ngây dại, thờ thẩn, giọng nói khàn đục, thiểu
não, nhìn hai bé chẳng khác gì hai bộ xương biết đi, thật quá đổi thương tâm, đau lòng,
không ai có thể cầm được nước mắt.
Trung Tá Chỉ Huy Trưởng đã mang hai bé về Bộ Chỉ Huy Hành Quân và giao cho Ban
Quân Y của Bác Sĩ Nguyễn Thành Châu khám nghiệm, chữa trị, chăm sóc cho đến khi
hai bé tạm bình phục và hai bé đã kể lại mọi sự việc như sau: “Hai cháu tên là Hà Thị
Loan và Hà Thị Nở, con của Trung Sĩ Hà Văn Hiến, phục vụ tại Tiểu Khu. Khi Việt cọng
tấn công, pháo kích vào An Lộc, Mẹ cỏng em trai 4 tuổi và đắt hai cháu chạy giặc, thì bất
ngờ Mẹ bị trúng đạn pháo chết ngay tại chổ, em trai bị thương nặng ở chân. Chúng cháu
liền cỏng em trai chạy xuống ẩn trú trong một cái hầm kế cận chân đồi Đồng Long, trong
đêm hôm đó Em trai cháu chết, qúa khó khăn để chôn cất, nên chúng cháu để xác Em trai
nằm bên cạnh cho đến thối rửa chỉ còn bộ xương. Chúng cháu trốn ở đó suốt hơn hai
tháng, lúc đầu may nhờ có một số cơm gạo sấy của ai bỏ lại đã ăn dần, về sau ăn sống
luôn mấy con gà con lạc mẹ đang trốn chung trong hầm. Cạn kiệt lương thực, đói qúa
ban đêm khi không còn nghe tiếng đạn pháo kích, thì mò ra khỏi hầm kiếm rau cỏ mà ăn.
May nhờ đến ngày hôm nay được các bác tìm thấy mà cứu sống các Cháu.
Trong năm 1973, Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị đã đưa hai Cháu Loan và Nở lên Đài
Truyền Hình Sài Gòn, để kể lại bao nổi gian khổ, đói khát hãi hùng, kinh hoàng trong
hơn hai tháng ẩn trốn ở An Lộc. Đến năm 1974, hai Cháu đã được một người Mỹ nhận
làm con nuôi, và hiện nay đang định cư tại Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ.
3. Tái Chiếm Đồi Đồng Long.
Đến ngày 12 tháng 6 năm 1972. Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù được lệnh tái chiếm Đồi
Đồng Long. Đây là một trận đánh sinh tử, quyết liệt cuối cùng mà Liên Đoàn 81 Biệt
Cách Dù đã được cấp trên tin tưởng giao phó. Vận mạng của An Lộc cũng sẽ tùy thuộc
vào sự thành bại trong trận huyết chiến này.
Đích thân Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Phan Văn Huấn đã điều động Đại Đội 2 và Đại Đội
3 chia làm hai cánh, Đại Đội 3 do Đại Úy Phạm Châu Tài chỉ huy, sẽ tiến quân từ hướng
Đông và Đại Đội 2 do Đại Úy Nguyễn Sơn chỉ huy, phối hợp cùng hai Toán Thám Sát
do Thiếu Úy Lê Văn Lợi chỉ huy, sẽ tiến quân từ hướng Nam, tất cả lợi dụng vào nửa
đêm trời tối, âm thầm, kín đáo bò sát lên đỉnh đồi, nằm ém quân tại chỗ, đợi cho đến khi
trời vừa hừng sáng, sau khẩu lệnh xung phong của Đại Úy Sơn, tất cả đã đồng loạt nổ
súng xối xả, tấn công vào các pháo tháp, hầm trú ẩn của địch quân, bọn địch dù đông,
43
công sự phòng thủ vững chắc, nhưng quá bất ngờ, không kịp trở tay trước lối đánh thần
tốc, táo bạo của Biệt Cách Dù, nên một số đã bị sát hại, số còn lại vừa định thần đã phản
ứng chống trả, nhưng không ngăn cản được quyết tâm tái chiếm đồi Đồng Long của các
Chiến sĩ Biệt Cách Dù, cuối cùng chúng cũng đã bị tiêu diệt, hay đã phải buông súng đầu
hàng.
Hai Toán Thám Sát đã không chậm trễ, khai triển đội hình công hãm và thanh toán cứ
điểm cuối cùng của địch trên chóp đỉnh, bốn tên địch quân ngoan cố cầm cự trong tuyệt
vọng, để rồi phải phơi thây thảm khốc. Thiếu Úy Lợi và các Toán viên đã mừng rơi nước
mắt, cùng cầm Quốc Kỳ Việt Nam Cọng Hòa cắm xuống ngay trên đỉnh Đồi Đồng Long.
Lá Cờ Vàng ba sọc đỏ lại bắt đầu ngạo nghễ tung bay trước gió, giữa bầu trời một màu
trong xanh pha trộn những tia sáng rực rỡ của ánh bình minh, đánh dấu cho một ngày
mới, một ngày mà An Lộc, Bình Long đã sạch bóng quân thù, một ngày mà Trung Tướng
Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn III đã ra tuyên bố: “Thành Phố Bình Long, An
Lộc đã hoàn toàn được giải tỏa”.
Trước chiến thắng vang dội, hiển hách của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, Trung Tướng
Nguyễn Văn Minh khi đến thị sát chiến trường An Lộc, đã thừa lệnh Tổng Thống và Đại
Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Lực VNCH, gắn cấp bậc Đại Tá đặc cách tại mặt
trận cho Trung Tá Phan Văn Huấn, Chỉ Huy Trưởng Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù. Cùng
lúc đó, Tướng tử thủ Lê Văn Hưng đã không tiếc lời khen ngợi và hầu hết các đơn vị
tham chiến tại Bình Long đều vui mừng, bày tỏ lòng cảm phục đối với các Chiến sĩ 81
Biệt Cách Dù đã anh dũng chiến đấu tiêu diệt quân thù, dành lại những phần đất đã lọt
vào tay bọn chúng.
4. Nghĩa Trang
Dĩ nhiên, trong một trận đánh dữ dội nhất nhì trong Lịch sử Chiến tranh Đông Dương,
Việt cọng tung hết lực lượng sẵn có ở miền Đông Nam Bộ và các Sư Đoàn thiện chiến
của chúng từ Miền Bắc xâm nhập vào chiến trường An Lộc. Bên phía Chính Quyền và
Quân Đội Việt Nam Cọng Hòa quyết tử chiến, giữ không cho giặc chiếm một tất đất nào,
nên đã đưa vào mặt trận những Đơn vị Quân Đội nổi danh, thiện chiến, thì sự hy sinh,
tổn thất của hầu hết các đơn vị này không phải là ít, trong đó có Liên Đoàn 81 Biệt Cách
Nhảy Dù của chúng tôi.
44
Với các Chiến Sĩ tử vong tại mặt trận, ban ngày chết bất cứ ở đâu, thì ban đêm đều được
đồng đội mang về tập trung chôn cất ở khu đất cạnh Chợ An Lộc, như nghiêm lệnh của
Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Phan Văn Huấn. Không thể chôn cất ở một địa điểm nào xa
Thành Phố vì tình hình chiến sự bấy giờ không cho phép, Liên Đoàn sử dụng khu đất
trống phía trước Chợ An Lộc để an táng những Chiến Sĩ Biệt Cách Dù đã nằm xuống.
Việc chôn cất khẩn cấp, giữa lúc giao tranh vẫn đang còn tiếp diễn, dù vậy chúng tôi thực
hiện một cách nghiêm chỉnh. Mộ có hàng lối, có đắp nấm và có bia gỗ khắc tạm tên tuổi,
v.v…
Về sau này, đích thân tôi được Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Phan Văn Huấn chỉ thị phác
thảo họa đồ, điều động một Toán 4 binh sĩ, gồm có Hạ sĩ Sang, Hạ sĩ Trúc (Đại Đội 4),
Hạ sĩ 1 Diệp, Binh 1 Ngà (Đại Đội 1) bắt tay vào sửa sang 68 phần mộ, dựng các bia đá
có khắc ghi đầy đủ Danh Tánh, Cấp Bậc, Ngày Tháng tử trận và xây dựng khuôn viên
bao quanh Nghĩa Trang, mặt chính diện ghi khắc hai câu thơ:“Túy ngọa sa trường quân
mạc tiếu. Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” và dựng lập một Đài Tử Sĩ “Tổ Quốc Tri Ơn”
bằng gạch, tô ciment, cao 10 ft, bên dưới bệ khắc nổi hai câu thơ:
“An Lộc Địa sử lưu chiến tích.
Biệt Cách Dù vị Quốc vong thân”
Vật liệu cần thiết cho công việc nầy là xi măng, gạch cát phần lớn là do các Hiệu Buôn
trong khu vực Liên Đoàn phòng thủ ủng hộ. Tôi phải kể đến sự đóng góp cao quí của cửa
hiệu Tân Hoài Sương đã hết lòng hỗ trợ. Ngoài ra, chúng tôi sử dụng một số xi măng của
các Cửa Hiệu đã bị đạn pháo kích của Việt cọng tàn phá, chủ nhân đã di tản.
Về sau chính quyền Tỉnh, theo sự đề nghị của Trung Tá Huấn, đã đền bù cho chủ nhân
các thương hiệu nầy, theo chính sách gọi là “bồi thường chiến tranh” của Bộ Xã Hội,
Chính Phủ VNCH.
45
Về hai câu đối ghi ở Đài Tử Sĩ Tổ Quốc Tri Ơn, phát xuất từ hai Câu Thơ của Cô Giáo
Pha dạy ở Trường Tiểu Học Thị Xã Bình Long. Cô Pha trúng đạn pháo kích bị thương ở
chân, không di chuyển được. Biệt Cách Dù đưa Cô về Trạm Xá Dã Chiến ở cạnh Bộ Chỉ
Huy chăm sóc. Khi thương tích đã bớt, đi lại được bằng đôi nạng gỗ do các Chiến Sĩ Biệt
Cách Dù tự chế, hằng ngày cô nhìn qua cửa sổ, thấy chúng tôi dưới làn mưa đạn, mịt mù
khói lửa đang cặm cụi chôn cất, đắp mộ, dựng bia cho các đồng đội đã hy sinh. Xúc
cảm trước những tử vong cao cả này và với lòng cảm mến, đội ơn sâu xa của một người
dân với Quân Đội VNCH nói chung và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù nói riêng, cô đã sáng
tác hai câu thơ:
“An Lộc Địa Sử lưu chiến tích,
Biệt Cách Dù vị Quốc vong thân”
Khi tình hình Thị Xã tạm yên. Vào ngày 7 tháng 7 năm 1972, trong chuyến viếng thăm
chiến trường An Lộc, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Đại Tướng Tổng Tham Mưu
Trưởng Cao Văn Viên, Tổng Trưởng Dân Vận Hoàng Đức Nhã và Tướng tử thủ Lê Văn
Hưng đã đến kính cẩn quỳ lạy, niệm hương cầu nguyện và rơi nước mắt trước Đài Tử Sĩ
của Nghĩa Trang 81 Biệt Cách Dù.
Sau sự kiện này, Thị Xã An Lộc đã hoàn toàn nằm trong vòng kiểm soát của Quân Lực
Việt Nam Cọng Hòa.
Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù chúng tôi sau 68 ngày chiến đấu đã hy sinh 68 Chiến sĩ và
hơn 300 Quân Nhân bị thương tích. Đến ngày 24 tháng 6 năm 1972, Liên Đoàn được
lệnh rút khỏi An Lộc, về nghỉ dưỡng quân 2 ngày tại Bộ Chỉ Huy đơn vị ở ngã tư An
Sương để bổ sung quân số, trang bị lại đầy đủ vũ khí, quân trang, quân dụng, và 48 tiếng
đồng hồ sau đó, ngày 28 tháng 6 năm 1972 lại khăn gói lên đường ra Vùng I hỏa tuyến
để tham gia tái chiếm Cổ Thành, Quảng Trị.
Hết “Bình Long Anh Dũng”, bây giờ là “Trị Thiên Vùng Dậy”.
***
11)- Cổ Thành Quảng Trị
“Trị-Thiên vùng dậy!”
“Miền thùy dương…
… bóng dừa, ngàn thông…”
48 giờ dưỡng quân tại hậu cứ, ở Ngã Tư An Sương, Hốc Môn, đối với tôi, ra Saigon làm
một chầu cà phê ở Mai Hương, Pagode thế là đủ!
Khi chưa kết hôn, 7 ngày phép với tôi là… quá dài. Tới ngày thứ tư, tôi đã bồn chồn,
ngày thứ năm, tôi nhớ đồng đội, nhớ đơn vị… Rồi tôi không thể nghỉ phép hết ngày thứ
sáu. Tôi về Đơn Vị. Không khí ở đó mặn nồng hơn, vui vẻ hơn. So với những ngày phép
ở ngoài, sao nó lạt lẽo, đôi khi vô vị. Đúng vậy! Chẳng có mùi vị gì hết.
Vì vậy, khi người bạn học cũ hỏi tôi: – “Mày mới từ tử địa An Lộc về, bây giờ lại ra Miền
Trung, bộ không ngán súng đạn sao?”
46
– “Bây chừ thì chưa. Bây chừ tao còn thấy đi hành quân với đơn vị, Anh Em, mà lại về
Huế nữa, là… vui lắm.”
Với cái vui ấy, tôi cùng Anh Em 81 Biệt Cách Dù lên mấy chiếc C-130 của Quân Đội
Mỹ, bay ra Phi Trường Phú Bài ngày 28 tháng 6 năm 1972.
Chúng tôi phải đi gấp vì Lệnh của Tổng Thống đấy.
Hôm Đại Lễ Kỹ Niệm Ngày Quân Lực 19 tháng 6 năm 1972, Tổng Thống đọc diễn văn
và ra lệnh cho Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, trong vòng 3 tháng, phải chiếm lại Cổ
Thành Quảng Trị. Kể từ hôm Tổng Thống ra lệnh, đến ngày chúng tôi lên máy bay, chỉ
mới 9 ngày. Ngoài ấy, Tướng Ngô Quang Trưởng đang là Tư Lệnh Chiến Trường, ngoài
các đơn vị của Quân Đoàn I, thì các Sư Đoàn Dù, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến cũng
đã có mặt rồi. Không những chúng ta giữ được phòng tuyến sông Mỹ Chánh, mà lại còn
đang phản công ra phía Bắc con sông nầy.
Xuống ở Phi Trường Phú Bài, chúng tôi được đưa thẳng ra PK. 17, tức là Đồn Cây Số
17, như dân chúng thường gọi. Đây là căn cứ của Trung Đoàn 3, Sư Đoàn 1 Bộ Binh.
Trung Đoàn đã ra trận, chỉ còn một ít binh sĩ ở lại phòng thủ doanh trại.
Đêm đó, như thường lệ, trước mỗi cuộc hành quân, chúng tôi nhận 7 ngày lương khô, và
được Đại Tá Chỉ Huy Trưởng Phan Văn Huấn, chỉ thị nhiệm vụ cho từng Đại Đội. Ông
đã được vinh thăng đặc cách Đại Tá tại mặt trận Bình Long, An Lộc, cũng như về sau
này tất cả Quân Nhân khác trong đơn vị có tham dự tại chiến trường An Lộc, mỗi người
đều được thăng một cấp.
Tôi, Đại Đội Trưởng Đại Đội 4, cùng Đại Úy Nguyễn Ích Đoan, Đại Đội Trưởng Đại
Đội 1 được lệnh đưa hai đại đội ngày mai lên đường tăng phái cho Tiểu Đoàn 11 Nhảy
Dù của Thiếu Tá Lê Văn Mễ. Đơn vị nầy, mới từ Charlie về, bổ sung, tái huấn luyện, ra
Quảng Trị hồi đầu tháng 5, ngay sau khi thành phố Quảng Trị bị mất, nay đang hành quân
từ phòng tuyến Mỹ Chánh, tiến dọc theo các ngọn đồi sát chân núi Trường Sơn, phía
Tây Quốc Lộ 1. Mục tiêu của Tiểu Đoàn 11 Dù là Nhà Thờ La Vang. Tiểu Đoàn 11
Dù đã hoàn thành nhiệm vụ.
Đại Đội tôi được quân xa vận chuyển đến gần ngã ba đường vào xã Ưu Điềm, từ đây
chúng tôi men theo hai bên Hương Lộ, để di chuyển về hướng Mỹ Chánh, vượt qua cầu
Mỹ Chánh vào khoảng trưa, Đại Đội phân làm 2 cánh, tiến ra hướng Bắc, ở hai bên Quốc
Lộ mới do Công Binh Mỹ vừa xây xong. Con đường nầy không đi qua Diên Sanh, Phủ
Lỵ Hải Lăng cũ. Trong suốt một ngày đường là chúng tôi tới khu vực Đại Lộ kinh
hoàng.
Một khung cảnh quá khủng khiếp hiện ra trước mắt, đã làm cho máu tôi ứa trào lên. Tại
sao Việt cọng tàn ác đến như vậy?
Đó là câu hỏi đầu tiên hiện ra trong trí tôi. Những cái ác mà tôi không thể tưởng tượng
nỗi, không thể chịu đựng nỗi, không thể chấp nhận được. Tôi vốn là một Phật Tử mà.
Nhưng dù là một Phật Tử, máu tôi không thể không sôi sục dâng trào trước cảnh tượng
bất nhân, tàn ác đó.
47
Trên mặt đường nhựa, xác người nằm la liệt, ngổn ngang. Thây người chết ở mọi tư thế
khác nhau, nằm sấp, nằm ngữa, nghiêng. Xác thì chân tay giang ra, xác thì chân hay tay
co lại. Xác nầy chồng lên xác kia, dồn đống, có xác một mình co quắp bên lề đường…
Cái mất đầu, cái mất tay, mất chân. Có xác đàn ông, có xác đàn bà, có xác trẻ em, có xác
không còn nhìn ra là đàn ông hay đàn bà nữa. Không thể nào tả hết được!!!
Đoạn đường Việt cọng giết người nầy, xảy ra ngay ngày Việt cọng chiếm thành phố
Quảng Trị, ngày 1 tháng 5 năm 1972 và những ngày sau đó.
Vậy là đồng bào nằm đây đã gần hai tháng. Da thịt đã rữa. Có nơi xương trắng đã bày ra,
sọ, tay chân hay xương sườn. Dù Quân Nhân mặc đồ trận hay thường dân, thì đồ trận, áo
quần cũng đã phai màu, mục nát. Mái tóc dài của mấy Mẹ, mấy Chị, mấy Cháu đã tróc
khỏi sọ não, bay là đà theo từng cơn gió thoảng, trên mặt cát còn xông đầy mùi tử khí.
Họ là những người trốn chạy, dù họ là dân sự hay quân nhân. Họ trốn chạy cọng sản. Họ
trốn chạy chiến tranh. Họ trốn chạy tên bay đạn lạc, dù không biết rõ của phe bên nào.
Giết chết những người trốn chạy. Vậy là vô nhân đạo, là vô lương tri. Là kẻ giết người,
họ đã đi tới chỗ tận cùng của lương tâm.
Trên mặt đường và cả hai bên vệ đường, bên cạnh xác người là lỗ chỗ các hố sâu của đạn
súng cối, đại bác, hỏa tiễn mà giặc cọng đã nhẫn tâm rót xuống để giết hại đồng bào, trẻ
thơ vô tội.
Đại Lộ kinh hoàng Quảng Trị
Xe cộ nằm dọc theo đường đi, mũi xe hướng về Nam. Xe Quân Đội, xe Dân Sự, xe Hàng,
xe đò chở khách. Xe lớn nhỏ đủ các loại. Nhiều chiếc bị cháy, sạm đen, nhiều chiếc bị
đạn pháo bắn hư hại một phần hay hoàn toàn. Rải rác đây đó là các loại xe gắn
máy, Vespa, Lambretta, Honda, Mobilette và khá nhiều xe đạp. Hầu hết, bị hư, cong
vành, bể lốp chỉ còn là đồ phế thải.
Dù là một người lính trận, từng vào sinh ra tử, tôi không dám nhìn kỹ những cái xác ấy.
Kinh hoàng quá! Kinh hoàng quá! Tàn ác quá! tàn ác vô cùng tận!!!
48
Chúng tôi lặng yên di chuyển trong đau buồn và tức giận, vừa sẵn sàng súng đạn để phản
công, nếu địch phục kích, lại cũng vừa để tránh địch phát hiện. Chúng sẽ pháo, pháo dồn
dập, nếu thấy chúng tôi.
Đêm mùa hè, trời tối chậm. Chúng tôi được lệnh dừng quân, nghỉ qua đêm. Tôi cho lệnh
các Trung Đội đào hố cá nhân phòng thủ ở cả bốn hướng, trải rộng dọc theo hai bên Quốc
Lộ 1, để tránh tổn thất khi bị địch pháo kích, đồng thời là để phản ứng ngay nếu bị địch
tấn công. Tôi và Ban Chỉ Huy Đại Đội đóng cạnh một chiếc xe GMC của phe ta bỏ lại.
Đêm trôi đi trong bóng tối tĩnh mịch, thỉnh thoảng có ngọn gió thổi qua, tôi thấy dễ chịu
đôi chút. Nhưng suốt đêm, tôi chỉ chợp mắt từng chặp. Tôi không sợ chết. Nếu thần chết
có đến, tôi sẽ chống lại, như cái bản năng sinh tồn của muôn loài muôn vật. Chính tôi đã
viết trên tường Đài Tử Sĩ ở An Lộc: “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Nói câu đó, và
khắc viết lại câu nói đó của người xưa, tức là tôi đã chấp nhận cái kỷ kiến ấy rồi. Có chi
mà tôi phải thắc mắc.
Nhưng những thây người ngổn ngang, đang rửa mục, trên đoạn đường đi qua hồi chiều
ám ảnh tôi, làm tôi không ngủ được. Chiến tranh là tàn ác. Những người đi đánh trận như
tôi, vì Tổ Quốc, vì Đồng Bào, tôi chấp nhận nó. Nhưng với những người nằm chết kia,
tôi thấy tội nghiệp cho họ, hay như câu Mẹ tôi thường nói: “tội vô cùng”. Tội cho họ quá,
không làm sao một con người còn có lương tâm, có thể chấp nhận được.
Sáng hôm sau thức dậy, nhìn vô thùng xe, nhìn chung quanh lại đầy rẫy xác người chết
khô, nằm co quắp, nằm dọc dài trên thảm cát, bên vệ đường. Thật là quá thương tâm, não
ruột. Tôi không kềm chế được nỗi xúc động, hai dòng nước mắt ứa trào.
Đại Đội tiếp tục tiến ra hướng Bắc. Tới một cây cầu, có phải là Cầu Dài như tên dân
chúng thường gọi đã bị sụp đổ, chúng tôi phải trầm mình lội nước vượt qua song.
Tôi xem lại bản đồ, bên cạnh Quốc Lộ 1, phía trái hướng Tây, song song với Quốc Lộ là
đường Xe Lửa Saigon, Đông Hà. Bên kia đường Xe Lửa là khu đồi hoang, lúp xúp cây
dại, cây mua và cây sim. Có lẽ vùng nầy tới mùa hoa nở, hoa mua và hoa sim phủ kín
ngọn đồi. Nó giống như những ngọn đồi miền Trung, Bình Trị Thiên hay Thanh Nghệ
Tỉnh vậy. Đây là “Những đồi hoa sim, màu tím hoa sim, tím cả chiều hoang biền biệt”.
Tiếc rằng, tôi là người chiến binh, không có thì giờ lang thang qua những đồi Sim nầy để
thấy màu tím của Quê Hương.
Di chuyển thêm chừng cây số nữa, bên trái là một Căn cứ Pháo Binh của Sư Đoàn Dù, tình
cờ tôi gặp Chuẩn Úy Hoàng Công Thức, Khóa 25 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức, là em một
người bạn học cùng xóm, con trai Thầy Hoàng Văn Ngũ, Giáo Sư Sinh Ngữ Trường
Trung Học Công Lập Nguyễn Tri Phương, Huế. Anh là Tiền Sát Viên Pháo Binh của Sư
Đoàn Nhảy Dù, đang hoạt động vùng nầy.
Sau cùng, Đại Đội tôi cũng đã tiếp cận tuyến phòng thủ của Tiểu Đoàn 11 Nhảy
Dù, tôi trình diện Mê Linh, tức là Thiếu Tá Lê Văn Mễ, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn
11 Dù. Cùng gặp Mê Linh với tôi sau đó là Đại Úy Nguyễn Ích Đoan, Đại Đội Trường
Đại Đội 1 Biệt Cách Dù.
Mê Linh giao nhiệm vụ cho hai Đại Đội Biệt Cách Dù là tái chiếm Nhà Thờ La Vang,
tên mới là Vương Cung Thánh Đường La Vang:
49
– “Đại Đội các anh phải chiếm lại Nhà Thờ nầy, và giữ nó, không cho địch chiếm lại”.
Có nghĩa là Dù đã chiếm nó. Đó là công lao của “Hùng móm”. Nhưng Hùng phải bỏ nó
lại đi tiếp xuống để đánh vào thành phố Quảng Trị. Thừa cơ hội đó, Việt cọng chiếm lại
mục tiêu nầy.
Con đường tiến quân của Cọng sản đánh vào Quảng Trị là con đường từ Ba Lòng
xuống Như Lệ, Phước Môn, bên hữu ngạn sông Thạch Hãn, theo một con đường bỏ hoang
đã lâu, có cái tên cũ là “Đường Bảo Đại”. Nó không giống như “Đường Trần Lệ Xuân”
ở Phước Long, con đường đi lấy gỗ rừng, của dân xe be, khai thác gỗ.
Bản Đồ mặt trận Quảng Trị năm 1972
Ở đây, “Đường Bảo Đại” là đường đi săn của Nhà Vua trước năm 1945, khi Ông Vua
ham săn bắn nầy còn ngồi trên Ngai Vàng.
Quân Cọng sản, theo con đường này, đưa quân chiếm lại Nhà Thờ La Vang. Nó cũng có
nghĩa là khi Tiểu Đoàn 11 Dù từ hướng Tây đánh vào Thành Phố, thì coi như Tiểu Đoàn
đưa lưng ra cho địch từ sau đánh tới. Trong ý nghĩa đó, hai Đại Đội Biệt Cách Dù có
nhiệm vụ lấy lại Nhà Thờ La Vang, và giữ nó là nhằm mục đích bẻ gảy ý đồ của địch.
Xem lại từ đầu : Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù : Tàn Cơn Binh Lửa – Hồi ký đại úy VNCH Lê Đắc Lực – ARVN 81st Airbone Ranger – P1
Xem lại : Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù : Tàn Cơn Binh Lửa – Hồi ký đại úy VNCH Lê Đắc Lực – ARVN 81st Airbone Ranger – P5
Xem tiếp : Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù : Tàn Cơn Binh Lửa – Hồi ký đại úy VNCH Lê Đắc Lực – ARVN 81st Airbone Ranger – P7
Comments are closed, but trackbacks and pingbacks are open.