Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù : Tàn Cơn Binh Lửa – Hồi ký đại úy VNCH Lê Đắc Lực – ARVN Airbone Ranger
Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù : Tàn Cơn Binh Lửa – Hồi ký đại úy VNCH Lê Đắc Lực – ARVN Airbone Ranger
I./ NGÀY RA ĐƠN VỊ
“Khắp bốn phương trời từng đoàn người trai về đây.
Dưới mái quân trường hăng say gắng sức đua tài.
Dù ngàn hiểm nguy quyết chí.
Một lòng thề luôn nêu danh “Sinh Viên Sĩ Quan Thủ Đức” hùng anh”. (Thủ Đức Hành Khúc)
Còn khoảng một tháng trước khi tốt nghiệp, tình trạng Khóa 24 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức của tôi khá vui, rộn rịp. Nó tương tự như học sinh sắp nghỉ hè, “lòng nôn nao khó ngủ”. Quả thật, ở đây không phải nghỉ hè mà ra trường. Ra trường? Đi đâu? Đơn vị nào? Xa hay gần và xa bạn bè, bạn cùng khóa thì sao đây? Thời gian Quân Trường 9 tháng, tuy ngắn ngủi mà tình cảm thì dài, “Từ Nam Quan Cà Mau, từ sông sâu miền cao”. Đó là lời một bài hát của mấy cô Cục Chính Huấn, nhưng cũng là con đường chúng tôi sắp đi tới. Nam Quan thì không chắc, nhưng Cà Mâu thì chắc chắn có người sẽ không còn xa lạ gì!
Tôi thì nhất quyết rồi, không Quân Nhu, không Quân Cụ nào hết, “thần tượng” đã có sẵn trong tâm trí. Lính cho ra lính, không thể lính văn phòng, không thể lính tuần tiễu, mà phải là lính đánh từ trên đầu giặc đánh xuống. Đánh như thế chỉ là Không Quân, Nhảy Dù, nên trong đầu tôi đã chọn Nhảy Dù, không phải vì người ta nói: “Thiên Thần Mũ Đỏ” mà chỉ là vì đánh cho ra đánh, đánh cho địch phải chạy dài. Đơn giản chỉ có vậy thôi.
Nhưng, cũng có những điều khó ngờ trước được, còn khoảng một tuần là mãn khóa, tôi lại thay đổi ý định…
Hôm đó, ở Hội Trường, bốn năm chiếc bàn của các binh chủng: Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Biệt Động Quân (BĐQ), Nhảy Dù, Lực Lượng Đặc Biệt (LLĐB) đang đón chào Sinh Viên Sĩ Quan đến ghi danh tình nguyện. Bàn nào bàn nấy đông người, đang chen chúc, hỏi han, chuyện trò vui vẻ. Tôi đứng ở bàn Nhảy Dù mà tôi đã ghi tên từ trước để tìm hiểu ít nhiều về binh chủng hào hùng nổi danh này. Bỗng chợt, tôi nhìn thấy một “thần tượng mới” xuất hiện, mũ nồi xanh, ba bông mai ngụy trang màu đen, áo bông rằn ri xanh đỏ màu huyết dụ, “cao bồi” hai súng “ru-lô” hai bên hông, vai mang cây “six-trent seize”, giày “bốt đờ-xô” cao cổ, nhưng từ đầu gối trở xuống còn ướt mèm. Tôi ngạc nhiên bước đến cạnh hỏi:
– “Đại Úy ở Binh Chủng nào? Đi đâu mà ướt vậy?”
– “Tôi ở Binh Chủng LLĐB, mới nhảy ở mật khu Đồng Xoài, vừa triệt xuất; nghe tin Khóa 24 Thủ Đức ra trường, vội lái xe đến đây để tuyển chọn các tân Sĩ Quan về cho Binh Chủng”.
Tôi thấy tướng dáng ông Đại Úy ngon lành quá, đúng là mẫu người lý tưởng của tôi, nên tôi quyết định bỏ Dù chọn Lực Lượng Đặc Biệt. Tôi hỏi:
– “Tôi chọn Dù rồi bây giờ chuyển qua bên nầy được không?
– “Em cứ ký giấy đi, có người lo cho em”. Ông Đại Úy giải thích.
Thế là tôi tình nguyện đầu quân về Binh Chủng LLĐB. Giữa trung tuần tháng 7 năm 1967, lễ Mãn Khoá 24 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức được tổ chức trọng thể tại Vũ Đình Trường, Thủ Khoa là nhà thơ Nguyên Sa Trần Bích Lan. “Tang bồng hồ thỉ, phỉ chí nam nhi” là từ đây. Những Chuẩn Úy “măng sữa” chọn Binh Chủng LLĐB nhận giấy nghỉ phép 10 ngày, cùng với Sự Vụ Lệnh trình diện Bộ Tư Lệnh LLĐB ở Thành Phố biển Nha Trang.
Trình diện Bộ Tư lệnh LLĐB xong, tôi và một số bạn đồng khóa được bổ sung về phục vụ tại Tiểu Đoàn 91 Biệt Cách Nhảy Dù (tên cũ của Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù – ARVN 81st Airbone Ranger). Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu Tá Lê Như Tú. Bộ Chỉ Huy đóng tại Trại Hoàng Diệu, nằm sát Trại Tây Kết của Quân Chủng Hải Quân, trên đường về Chụt, trước mặt là đại dương một màu xanh biếc, ngày đêm vang vọng tiếng sóng vỗ rì rào. Từ Tiểu Đoàn, tôi được bổ nhiệm tạm thời chức vụ Trung Đội Trưởng Trung Đội 3, Đại Đội 1. Đại Đội Trưởng là Trung Úy Nguyễn Thanh Liêm, ông nầy tướng cao to dềnh dàng. Nơi đồn trú Đại Đội 1 nằm chung với Đại Đội 2, trong Trại Nguyễn Văn Tân, bản doanh của Trung Tâm Huấn Luyện Hành Quân Delta, trên đường Phước Hải nối dài, đi về hướng Quân Lao.
Khoảng ba tháng sau tôi theo học khóa Nhảy Dù ở Trung Tâm Huấn Luyện Động Ba Thìn của Binh Chủng tại Cam Ranh. Mãn Khóa trở về đơn vị, thì nhận lệnh ba lô, áo giáp, súng đạn đầy đủ cấp số, chuẩn bị lên đường quân hành xa.
Đây là lần thứ tư, sau các cuộc hành quân truy lùng địch ở mật khu Đồng Bò, Tô Hạp, Plei Djereng, mà tôi đã và sẽ trực tiếp tham dự. “Thao trường đổ mồ hôi, Chiến trường bớt đổ máu”. Tôi khởi sự đi vào trận chiến.
***
II./ “Mậu Thân Đợt 1”
“Tình người về giữa đêm xuân chưa dứt cuộc vui,
Giặc đã qua đây gây cảnh nổi trôi…”
“Chuyện một chiếc cầu đã gãy”
(Trầm Tử Thiêng)
1. Giải tỏa Đài Phát Thanh Nha Trang và Bộ Chỉ Huy 5 Tiếp Vận.
Tết Mậu Thân (1968), tôi không về phép ở Huế thăm gia đình, đang ở với đơn vị tại Nha Trang. Tôi ra trường chưa được một năm; một năm là thời hạn để thăng Thiếu Úy; còn mang lon Chuẩn uý, “lon” trẻ nhất Quân Đội Việt Nam Cọng Hòa, câu tôi thường nói đùa. Vả lại, tuổi tôi lúc ấy mới quá 20, cũng còn là sĩ quan trẻ. Tôi đang làm Trung Đội Trưởng Trung Đội 3 thuộc Đại Đội 1. Không về phép thì tôi… đi chơi.
Không có lệnh cắm trại hay báo động gì cả. Những ai trong đơn vị có nhiệm vụ trực gác thì cứ… “ở nhà”. Tôi rủ Thiếu Úy Nguyễn Ích Đoan, Thiếu Úy Đặng Thiện Chẩn phóng xe Honda đi uống càfé, nghe nhạc, một cái “gout” của đám sĩ quan trẻ của chúng tôi thời kỳ ấy.
Chúng tôi đang ngồi trong Quán Bar số 5, kế bờ biển Nha Trang, uống càfé vừa nghe nhạc, mắt thì nhìn ra ngoài biển khơi. Đêm ba mươi, không trăng, biển đen một màu buồn thăm thẳm.
Tới nửa đêm, ngay giờ Giao Thừa, pháo nổ ran tứ phía. Nghe pháo, mọi người ai cũng vui, đón mừng một Năm mới. Lòng tôi rạo rực như ngày nào của tuổi ấu thơ. Tuy nhiên, tôi nghe tiếng pháo nổ hơi lạ, không phải là tiếng đì đùng như tôi đã từng nghe. Pháo nổ hơi lâu, có ai đó trong quán nhận xét:
– “Năm nay pháo nổ dữ, không chừng làm ăn khá!”
Anh ta vừa dứt câu thì tôi thấy trên đường trước Quán Bar, đồng bào xôn xao, chạy lui chạy tới. Có tiếng la to: “Việt cọng tấn công!”
Nghe thế, tôi đứng lên đi ra đường thăm dò. Đồng Bào bây giờ chạy dáo dác đã đông lắm. Có tiếng la, tiếng khóc. Tôi bực mình, nói thầm: “Mấy thằng Việt cọng chó đẻ thật! Ngày vui của dân chúng mà nó cũng không tha. Tổ Quốc đã không yên với chúng. Tổ Tiên cũng không yên với chúng.”
Lúc đó, Đoan và Chẩn cũng rời quán ra đứng bên tôi hốt hoảng nói: – “Trở về Doanh Trại gấp! Về gấp!!!”
Mặc dù chưa có lệnh báo động, nhưng vì linh tính và trực giác của những người lính tác chiến, chúng tôi vội vã lên xe phóng nhanh. Huấn thị là mệnh lệnh chung, bất di bất dịch của Đơn Vị Trưởng đã được ban hành. Quân Nhân thuộc cấp phải tuyệt đối tuân hành: Phải tự động trở về ngay doanh trại mỗi khi có biến động xảy ra chung quanh khu vực đơn vị trú phòng.
Trở lại đơn vị, tôi thấy hầu hết quân nhân các cấp tề tựu đông đủ. Trung Úy Nguyễn Thanh Liêm, Đại Đội Trưởng ra lệnh cho các Trung Đội Trưởng kiểm điểm quân số, báo cáo binh lính đã về đầy đủ chưa? Tôi tập họp, điểm danh, không thiếu một ai. Tôi đoán biết với tình hình bất ổn này, Đại Đội phải ứng chiến hành quân, tôi ra lệnh Trung Đội Phó Nồng A Si cho anh em chuẩn bị nón sắt, vũ khí, và kiểm soát đạn dược. Và đúng như dự đoán, lệnh cấm trại, túc trực chuẩn bị tác chiến được ban hành khẩn cấp trong toàn bộ các đơn vị trú đóng tại Thị Xã Nha Trang.
Khoảng 3 giờ sáng, Đại Đội Trưởng Liêm báo cho biết: Việt cọng đã đánh chiếm Đài Phát Thanh Nha Trang và Bộ Chỉ Huy 5 Tiếp Vận. Tiểu Đoàn 91 Biệt Cách Dù và Trung Tâm Huấn Luyện Hành Quân Delta có lệnh tái chiếm, ưu tiên là Đài Phát Thanh, không cho địch dùng đài để tuyên truyền. Cũng may, mặc dù chiếm được Đài Phát Thanh, nhưng, “mấy thằng mọi” nầy chẳng biết gì về máy móc để mở ra mà dùng. Nhưng lỡ mà chúng nó chộp được một kỹ thuật viên nào đó của đài, dí súng vào đầu anh ta, buộc anh ta mở đài cho bọn chúng nói thì “mệt cầm canh” chớ chẳng chơi. Vì vậy, khi Đại Đội 1 Biệt Cách Dù, được tăng cường cho Trung Tâm Hành Quân Delta đặt dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Phan Văn Huấn. Sau khi được Thiếu Tá Huấn phân phối nhiệm vụ và
khu vực trách nhiệm, Đại Đội 1 khai triển đội hình, di hành tiếp cận Đài Phát Thanh, cách doanh trại chúng tôi khoảng chừng cây số, theo đội hình hàng dọc, len lỏi hai bên phố và khu nhà dân chúng, cố tránh không để địch phát hiện.
Trên đường không một bóng người. Dân chúng phần đông trốn hết ở trong nhà, đóng cửa, tắt đèn, im thin thít. Vậy là một Giao Thừa đầy súng đạn, làm mất đi niềm vui sum họp mọi gia đình trong Lễ Tết Nguyên Đán năm nay. Bỗng tôi tự nhủ thầm: “Yên tâm đi! Bà con ơi! Tôi đang trên đường đến tiêu diệt chúng nó đây!” Rồi tôi lại chợt nghĩ tới Thành Phố Huế của tôi: “Không biết bây giờ ngoài nớ ra răng? Có bị cùng chung tình cảnh như Nha Trang bây giờ không?” Và một câu thơ, câu hò nào đó mà thầy giáo đã đọc cho nghe từ thuở thiếu thời: “Quê hương chừng lạnh lắm!“. “Quê hương tôi nghèo lắm ai ơi! Mùa Đông thiếu áo, lụt thời thiếu ăn”. Tôi nghĩ tới cái lạnh của Huế. Tôi đâu có ngờ Huế của tôi cũng chết chóc và tang thương như tôi biết sau nầy.
Đài Phát Thanh nằm trên đường Phước Hải phía bên trái, trước mặt bên kia đường là bức tường thành cao, kiên cố của Quân Lao Nha Trang. Con đường này chạy dài đâm ngang đường rầy xe lửa, đường Nhà Thờ và ngang qua trước mặt Đồn Quân Cảnh và Quân Vụ Thị Trấn Nha Trang, rồi tiếp giáp đoạn cuối đường Độc Lập hướng đi lên Diên Khánh. Phía sau lưng Đài Phát Thanh là một vùng trũng, ruộng và sình lầy, chạy kéo dài tới vùng núi mật khu Đồng Bò. Quân cọng sản đã chiếm hết toàn bộ Đài Phát Thanh, cả Trung Tâm chính và các Trạm Phát Tuyến phụ nằm chung quanh, nhưng chúng vẫn chưa xử dụng đài để phát thanh được.
Trung Tâm Hành Quân Delta và Đại Đội 1 Biệt Cách Nhảy Dù, được Thiếu Tá Phan Văn Huấn chia làm 2 mặt tấn công vào Đài Phát Thanh. Từ phía trái của Đài, Đại Đội Trưởng Liêm đưa Trung Đội 1 của Thiếu Úy Đoan và Trung Đội 2 của Thiều Úy Chẩn, tiến sâu theo đường Phước Hải len qua trong một số nhà dân để bám sát tường thành Đài Phát Thanh, Trung Đội 3 do tôi chỉ huy cùng Trung Đội 4 của Chuẩn Úy Tài, men theo các bờ ruộng, bò sát lên theo hướng Đông Bắc để tiếp cận hàng rào và bức tường đàng sau Đài.
Xem tiếp : Liên Đoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù : Tàn Cơn Binh Lửa – Hồi ký đại úy VNCH Lê Đắc Lực – ARVN 81st Airbone Ranger – P2