
Trận Kampong Trach trong Mùa Hè Đỏ Lửa – Battle of Kampong Trach 1972
Trận Kampong Trach là trận đánh lớn nhất tại vùng IV Chiến Thuật trong Mùa Hè Đỏ Lửa – chiến dịch Xuân Hè – chiến dịch Nguyễn Huệ – Battle of Kampong Trach in Easter Offensive 1972
Lực lượng chính của Bắc Việt tham dự chiến trường Kampong Trach là Công trường 1 gồm Trung đoàn 88, Trung đoàn 95A, Trung đoàn 101D, Trung đoàn 40 Pháo binh, Đoàn 200 Hậu cần, và được tăng phái thêm một trung đoàn của Công trường 9, chưa kể các đơn vị pháo binh, đặc công, vv … (Cần nói thêm là các sư đoàn Bắc Việt khi đưa vào miền Nam tham chiến đều được cải danh là Công trường nhằ mục đích phi quân sự). Công trường 1 Bắc Việt được thành lập năm 1965 ở rừng núi phía Tây thành phố Huế, năm 1968 bị quân Việt Cộng Hòa đánh thiệt hại nặng phải di chuyển vào Kontum, qua năm 1969 lại bị thiệt hại nặng nữa nên được cho qua Takeo, đất Campuchia, đặc trách lòn quân qua biên giới quấy phá vùng IV Việt Nam Cộng Hòa.
Phía lực lượng Việt Nam Cộng Hòa tham dự trận Kampong Trach – Battle of Kampong Trach ban đầu là Liên đoàn 42 Chiến thuật Biệt Động Quân với ba Tiểu đoàn 66 – 93 – 94 chỉ huy bởi Trung tá Trần Kim Đại được tăng phái thêm một Chi đoàn Thiết Giáp thuộc Thiết đoàn 12 Kỵ Binh. Chỉ huy Quân Đoàn IV VNCH là Trung tướng Ngô Quang Trưởng . Trưởng Phòng 2 phụ trách tình báo của Bộ Chỉ huy Biệt Động Quân Quân Khu IV là Trung tá Trần Duy Hòe
Vùng IV Chiến Thuật, dọc theo kinh Vĩnh Tế phân chia hai nước Việt – Miên, từ Thất Sơn Châu Đốc chạy dài sang Hà Tiên Rạch Giá có ba trại Biệt Kích. Trại Ba Xoài cải tuyển thành Tiểu đoàn 94, Trại Vĩnh Gia thành Tiểu đoàn 93, và Trại Tô Châu thành Tiểu đoàn 66. Còn có Tiểu đoàn 85 đóng quân chung với Bộ Chỉ huy Liên đoàn tại Thất Sơn. Các vị Tiểu đoàn trưởng đầu tiên, theo thứ tự trại vừa nêu là Đại úy Triệu Sang, Thiếu tá Hoàng Đình Đốc, Thiếu tá Nguyễn Văn Thanh, và Đại úy Khôi (người viết quên họ). Liên đoàn 42 Chiến thuật Biệt Động Quân là hậu thân của B20 Lực Lượng Đặc Biệt, chỉ huy bốn tiểu đoàn kể trên.
Các trại là các toán A Lực Lượng Đặc Biệt được cải tuyển thành cấp tiểu đoàn BĐQ, các toán B chỉ huy các toán A thành cấp liên đoàn, các toán C chỉ huy một vùng thì trở thành bộ chỉ huy BĐQ Quân khu. Ở Cần Thơ, C4 trở thành Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân Quân Khu IV, dưới sự chỉ huy của Đại tá Phạm Duy Tất.
Phía lực lượng Việt Nam Cộng Hòa ban đầu là Liên đoàn 42 Chiến thuật Biệt Động Quân với ba Tiểu đoàn 66 – 93 – 94 chỉ huy bởi Trung tá Trần Kim Đại được tăng phái thêm một Chi đoàn Thiết Giáp thuộc Thiết đoàn 12 Kỵ Binh. Binh sĩ BĐQ thường gọi thân mật Trung tá Đại là … ông Năm Ruộng, Năm là tượng trưng cho quan năm, Ruộng tại vì trung tá Đại chuyên đóng quân ngoài ruộng, tránh nhà dân hay khu đông đúc).
Khoảng giữa năm 1971, các tin tình báo cho thấy khả năng Bắc Việt sẽ mở trận đánh lớn trong mùa khô 1972 nên Bộ Tư lệnh tiền phương của Biệt Khu 44 đến đóng chung trong căn cứ của Liên đoàn 42 Chiến thuật Biệt Động Quân, Chuẩn tướng Tư lệnh Trần Văn Hai thường xuyên có mặt tại căn cứ. Hơn tháng sau đến phiên Đại tá Phạm Duy Tất mang Bộ Chỉ huy nhẹ của mình từ Cần Thơ đến căn cứ.
Những tháng trước cái Tết 1972, trực thăng của Đại tá Phạm Duy Tất bay hàng ngày trên khu vực dọc kinh Vĩnh Tế (lúc này Biệt Động Quân còn chịu trách nhiệm toàn vùng biên giới Việt – Miên) đã nhận thấy sự xuất hiện bất bình thường của quân Bắc Việt. Những tốp bộ đội chính quy mặc quân phục màu vàng xuất hiện ngay giữa ban ngày, bắt đầu bị phát giác trong khu vực Thất Sơn hoặc vùng đối diện phía bên Miên, rồi dần dà phát hiện thêm những tốp khác về phía Tây, tức hướng Hà Tiên. Đại khái, họ kéo nhau băng từ Đông sang Tây, trong khu vực dọc hai bên kinh Vĩnh Tế vài cây số. Có lần, một toán quân Bắc Việt quân số khoảng hơn một trung đội đang đi giữa một cánh đồng vàng rực giữa trưa thì nghe tiếng trực thăng của Đại tá Phạm Duy Tất bay tới. Trực thăng xả đại liên xuống khiến quân Bắc Việt thiệt hại nặng
Trong thời gian này Trung tá Trần Kim Đại đang dẫn Liên đoàn 42 Biệt Động quân gồm ba Tiểu đoàn 66 – 93 – 94 được tăng phái thêm một Chi đoàn của Thiết đoàn 12 Kỵ Binh hành quân ngoại biên trong vùng phía Bắc Kampong Trach. Tháng 3/1972 bất ngờ xãy ra một trận “tao ngộ chiến” với bộ đội chính quy Việt Cộng với quân phục kaki vàng, nón cối. Phía VNCH bị cháy một chiếc M113, theo lời Trung tá Đại kể thì thiệt hại nhân mạng cả hai bên không đáng kể. Trận đánh xãy ra ở một địa điểm cách Kampong Trach 6 cây số về hướng Bắc, cách Tuk Meas 1 cây số về hướng Nam.
Ngày 22/3/1972 , tiểu đoàn 94 Biệt Động Quân đã lại đụng trận với một lực lượng Bắc Việt mạnh hơn gấp mấy lần, gồm Trung đoàn 88, Trung đoàn 40 Pháo binh, Đoàn 200 Hậu cần thuộc Công trường 1 Việt Cộng. Trung tá Đại dẫn liên đoàn lội ngược về phía Nam đóng chận tại Kampong Trach (quan Năm Ruộng hạ trại ngoài ruộng, nên phố xá – trường học – nhà cửa trong thị trấn Kampong Trach không hề bị thiệt hại vì trận đánh) đồng thời báo cáo tình hình về Bộ Tư lệnh tiền phương Biệt Khu 44 ở Thất Sơn. Chuẩn tướng Trần Văn Hai quyết định tăng phái nguyên Thiết đoàn 12 Kỵ Binh cho Trung tá Đại, nhưng ông Đại nêu ra vấn đề lấn cấn về chỉ huy, vì Liên đoàn trưởng Biệt Động Quân và Thiết đoàn trưởng Kỵ Binh có chức vụ ngang nhau.
Tới đây thì Trung tướng Ngô Quang Trưởng, với quyết tâm chận đứng Sư đoàn 1 Bắc Việt ở Kampong Trach, ra lệnh đưa cả hai Thiết đoàn 12 và 16 dưới quyền chỉ huy của Đại tá Nguyễn Văn Của, Tư lệnh phó Lữ đoàn 4 Kỵ Binh, từ ngã Hà Tiên tiến qua Kampong Trach. Ở Thất Sơn, theo lời kể của Đại tá Phạm Duy Tất, Chuẩn tướng Hai hỏi Đại tá Tất
Comments are closed, but trackbacks and pingbacks are open.