Ngày dài nhất trên chiến tuyến Quảng Trị năm 1972
Từ khi Bắc Việt huy động 45 ngàn quân tấn công cường tập vào tuyến phòng thủ của các đơn vị bộ chiến Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) tại phía Tây và Tây Bắc Quảng Trị đến ngày 29 tháng 4/1972, chiến trường Quảng Trị đã trải qua 30 ngày sôi động.
Trước áp lực quá nặng của Cộng quân, sau khi căn cứ Tân Lâm (Camp Carroll )thất thủ và một số cứ điểm ở Tây Bắc phải rút bỏ, các đơn vị Việt Nam Cộng Hòa tại vùng giới tuyến đã phải thu hẹp tuyến phòng thủ. Sau 10 ngày kịch chiến, lực lượng bộ chiến của Việt Nam Cộng Hòa đã giành lại thế chủ động khi hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) đánh bại cuộc tấn công cường tập của Bắc Việt tại căn cứ Phượng Hoàng trong ba ngày 9, 10 và 11 tháng 4/1972. Thất bại trong trận tấn công, Phía quân Giải Phóng đã tung thêm quân áp lực nặng căn cứ này. Để bảo toàn lực lượng, quân trú phòng đã triệt thoái để tăng cường lực lượng bảo vệ phòng tuyến căn cứ Ái Tử. Từ giữa tháng 4 đến ngày 28 tháng 4/1972, tuyến phòng thủ của lực lượng Việt Nam Cộng Hòa giới hạn từ Đông Hà trở vào. Tối 28 tháng 4/1972, chiến xa quân Giải Phóng và bộ đội tràn qua cầu Quảng Trị nhưng đã bị đẩy lùi.
Trong ngày 29 tháng 4/1972, thế trận phòng thủ của lực lượng Việt Nam Cộng Hòa tại Quảng Trị đã trở nên nguy ngập, quân Giải Phóng đã thay đổi các hướng tấn công để chuyển qua một nỗ lực mới. Về lực lượng Sư Đoàn 3 Bộ Binh (BB) và các đơn vị tăng phái, các sĩ quan chỉ huy trưởng đơn vị lại vô cùng lo lắng vì vấn đề tiếp tế và tiếp liệu đạn dược đang ở trong tình trạng thiếu hụt. Một số đại bác đã được phá hủy sau khi tất cả đạn dược đã được bắn đi.
Cùng với những cố gắng trong nỗ lực ngăn chận Cộng quân, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3 BB điều động lực lượng để giải tỏa áp lực địch trên Quốc Lộ 1. Thế nhưng kế hoạch giải tỏa tiến hành chậm vì thiếu sự phối hợp giữa các đơn vị và hỏa lực phản công. Trong những ngày cuối tháng 4/1972, lực lượng phòng thủ tại tuyến Quảng Trị được tiếp tế bằng trực thăng với nhiều rủi ro nguy hiểm trên phi trình, đặc biệt là đoạn đường dọc theo Quốc Lộ 1.
NGÀY DÀI NHẤT Ở TUYẾN THẠCH HÃN
Trước các biến động chiến sự ngày càng nguy kịch, sáng ngày 30 tháng 4/1972, Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai, Tư Lệnh Sư Đoàn 3 BB, triệu tập các sĩ quan chỉ huy trực thuộc và tăng phái về họp tại Bộ Tư Lệnh Hành quân Sư Đoàn trong Cổ Thành Quảng Trị (tức trại Đinh Công Tráng). Tại buổi họp, tướng Giai trực tiếp trình bày kế hoạch triệt thoái về phía Nam sông Thạch Hãn.
Theo sự phối trí của tướng Giai, Lữ Đoàn 147 Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) từ căn cứ Ái Tử sẽ rút về thị xã Quảng Trị để lập vòng đai cố thủ bảo vệ tỉnh lỵ, một tuyến phòng thủ mới sẽ thiết lập dọc theo bờ Nam sông Thạch Hãn bởi lực lượng Bộ Binh và Biệt Động Quân (BĐQ) với sự yểm trợ của một nửa lực lượng chiến xa và thiết vận xa, thành phần Thiết Giáp (TG) còn lại sẽ phối hợp với đơn vị bộ chiến để giải tỏa Quốc Lộ 1 về hướng Nam. Tất cả các đơn vị sẽ hoàn tất kế hoạch di chuyển vào ngày hôm sau. Riêng Lữ Đoàn 147 TQLC sẽ rời căn cứ Ái Tử trưa ngày 30 tháng 4/1972.
…Về trận chiến của Lữ Đoàn 147 TQLC, khi các đơn vị của lữ đoàn này về đến bờ Bắc sông Thạch Hãn trưa ngày 30 tháng 4/1972 thì cả hai cầu bắc ngang sông Thạch Hãn đã bị giật sập. Cầu Ván do Cộng quân giật sập đêm 28 tháng 4/1972, còn cầu Sắt thì do thiếu phối hợp, toán Công Binh đã đặt chất nổ phá cầu trước khi đoàn quân xa của Tiểu Đoàn 2 Pháo Binh TQLC và ba tiểu đoàn 1, 4 và 8 TQLC đi qua. Đoàn xe và súng đại bác đã được phá hủy tại chỗ, còn các tiểu đoàn TQLC thì vượt sông Thạch Hãn, chiếm giữ các vị trí trọng yếu quanh thị xã.
Đến ngày 30 tháng 4/1972, Sư Đoàn 3 Bộ Binh chỉ còn lại Trung Đoàn 2 BB và một tiểu đoàn của Trung Đoàn 57 BB. Vị sĩ quan chỉ huy của Trung Đoàn 57 BB không liên lạc được với hai tiểu đoàn trực thuộc, ông chỉ còn bên mình một trung đội trinh-sát để bảo vệ Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn. Còn Trung Đoàn 56 BB, sau khi tan rã ở căn cứ Tân Lâm, đã được tái bổ sung quân số và tập trung ở căn cứ Nancy (gần Mỹ Chánh, phía Nam Quảng Trị). Trung Đoàn này đang trong giai đoạn tái chỉnh trang nên chưa tham chiến được.
Theo ghi nhận của một sĩ quan thuộc Sư Đoàn 3 BB, thì sau sự kiện Trung Đoàn 56 BB thất thủ, tinh thần chiến đấu của binh sĩ các đơn vị thuộc hai trung đoàn 2 và 57 BB đã bị giao động mạnh. Còn với Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai, ông vẫn còn tin cậy vào Trung Đoàn 2 BB, một trong những trung đoàn kỳ cựu nhất của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, một trung đoàn mà chính tướng Giai đã chỉ huy khi ông còn mang cấp thiếu tá. Và cũng chính từ trung đoàn này, ông đã có những thăng tiến trong binh nghiệp: Chỉ trong vòng 2 năm, với chức vụ Trung Đoàn trưởng Trung Đoàn 2 BB, ông đã hai lần thăng cấp (trung tá vào giữa năm 1967, 18 tháng sau đó, vào đầu tháng 1/1969, ông được thăng đại tá). Tướng Giai đã có hơn 3 năm chỉ huy Trung Đoàn 2 BB trước khi được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 1 vào tháng 9/1969, ông được thăng chuẩn tướng tại mặt trận trong cuộc hành quân Hạ Lào tháng 3/1971, và trở thành vị sĩ quan tư lệnh đầu tiên của Sư Đoàn 3 BB vào tháng 10/1971.
NỖI CÔ ĐƠN CỦA CHUẨN TƯỚNG GIAI VÀO NHỮNG NGÀY CUỐI TRẬN CHIẾN
Trở lại với quyết định của tướng Giai trong kế hoạch triệt thoái lực lượng từ phía Bắc sông Thạch Hãn rút về phía Nam, trước khi ban quân lệnh cho các đơn vị thực hiện, tuớng Giai đã báo cáo cho Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm (tư lệnh Quân Đoàn 1). Theo lời của cựu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, thì khi nhận được kế hoạch của tướng Giai, Trung Tướng Lãm lặng thinh đồng ý, dẫu cho ông ta chưa bao giờ xác nhận sự chấp thuận trong cương vị tư lệnh quân đoàn, cũng như ông ta chưa đưa ra bất cứ một chỉ thị nào cho vị sĩ quan tư lệnh Sư Đoàn 3 BB là triệt thoái hay cố thủ.
Tướng Giai gần như cô đơn tại mặt trận Quảng Trị. Một số binh đoàn tăng phái không thực hiện đúng các quân lệnh của ông như trường hợp Lữ Đoàn 1 Ky Binh mà theo lời kể của Tướng Ngô Quang Trưởng thì vị sĩ quan lữ đoàn trưởng thường nhận lệnh trực tiếp từ Trung Tướng Hoàng Xuân Lãm và cũng không báo lại cho tướng Giai. Gần cuối tháng 4/1972, viên đại tá chỉ huy lữ đoàn này bị thương nhẹ và đã được tản thương về quân y viện. Sự ra đi của đại tá lữ đoàn trưởng này đã kéo theo sự triệt thoái ngoài kế hoạch của các đơn vị Thiết Giáp trực thuộc.
Giải thích về sự tan rã của Trung Đoàn 56 Bộ binh tại căn cứ Tân Lâm trong ngày 2 tháng 4/1972, nhiều sĩ quan cao cấp Việt-Mỹ cho rằng trung đoàn này là trung đoàn tân lập, hơn 70 phần-trăm binh sĩ của trung đoàn là tân binh hoặc thành phần quân phạm được phục hồi binh quyền. Riêng về sự việc ngưng chiến đấu của Trung Tá Phạm Văn Đính (chỉ huy trưởng Trung Đoàn 56 BB) đã là một cơn chấn-động tinh thần lớn đối với Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 3 BB.
Nhận định về trường hợp của Thiếu Tá Phạm Văn Đính đầu hàng cùng căn cứ Tân Lâm, cựu Trung Tướng Ngô Quang Trưởng đã viết trong hồi ký như sau: Sư đoàn đã không yểm trợ cho Trung Tá Đính đầy đủ và Quân Đoàn đã quên ông. Thiếu Tá Đính muốn được triệt thoái khỏi căn cứ bao vây nhưng tướng Giai không chấp thuận. Nhận thấy không còn hy vọng và muốn bảo vệ tính mạng của binh sĩ của mình càng nhiều càng tốt, Trung Tá Đính họp tất cả sĩ quan bộ chỉ huy, các đơn vị trưởng trực thuộc và tuyên bố ý định ngưng chiến đấu. Ông ra lệnh sĩ quan Ban 2 đem một miếng vải trắng đến cổng trại và treo ở đó.
Tiếp đó, việc liên lạc vô tuyến với Cộng quân đã được thực hiện và các thỏa thuận về buông súng tiến hành: 1,500 binh sĩ VNCH bị Bắc quân bắt giữ, cùng với 22 khẩu đại bác, trong đó có pháo đội 175 ly và một pháo đội 105 ly của TQLC tăng phái, cùng một số đại bác phòng không 50 ly bốn nòng và 40 ly hai nòng. Trung Đoàn 56 BB vĩnh biệt Tân Lâm, để sau đó trung đoàn được tái lập ở gần Mỹ Chánh