Lò cao kháng chiến Hải Vân sản xuất gang ở Như Xuân, Thanh Hóa
Lò cao kháng chiến Hải Vân là lò cao sản xuất gang được quân Giải Phóng đặt trong hang động vùng rừng núi Như Xuân tỉnh Thanh Hóa và đã sản xuất hàng trăm tấn gang mà không bị quân Pháp phát hiện
Năm 1949, cuộc kháng chiến chống Pháp có bước chuyển biến mới. Nhiệm vụ sản xuất vũ khí phục vụ bộ đội đánh lớn và trang bị rộng rãi cho toàn dân mà Trung ương Đảng giao cho ngành quân giới rất nặng nề. Khó khăn nhất là vật tư, nguyên liệu để sản xuất vũ khí. Đặc biệt, gang – một thứ “cơm gạo, bánh mì” cho công nghiệp thì gần như không có.
Trước nhu cầu của tiền tuyến lớn, được lệnh của Trung ương Đảng và Bác Hồ, Cục Quân giới và Sở khoáng chất – Kỹ nghệ Trung bộ do kỹ sư Võ Quý Huân làm Giám đốc đã giao nhiệm vụ cho xưởng hóa chất miền Nam đảm nhận nghiên cứu sản xuất gang. Ngay sau đó, một xí nghiệp chế biến gang bí mật có tên 3KC được xây dựng ở vùng Cầu Đất, sông Con (thuộc huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An). Tuy nhiên, do địa hình hiểm trở, gây khó khăn trong vận chuyển và sinh hoạt của đội ngũ cán bộ, xí nghiệp được chuyển về vùng Cát Văn bên bờ sông Lam, tỉnh Nghệ An. Khi việc xây dựng đang tiến hành thì thực dân Pháp phát hiện, chúng cho máy bay ném bom, đánh phá nên lò cao sản xuất gang không thực hiện được. Lúc này, đồng chí Võ Quý Huân được chuyển lên Việt Bắc công tác.
Xác định khu vực thung lũng Đồng Mười của huyện miền núi Như Xuân (nay là huyện Như Thanh), tỉnh Thanh Hóa là một địa điểm thuận lợi về giao thông, nguồn nguyên liệu và đảm bảo tính bí mật, Cục Quân giới đã quyết định di chuyển xí nghiệp về đây và cử đồng chí Trịnh Tam Tỉnh phụ trách xây dựng lò cao luyện gang. Là một cán bộ có tinh thần trách nhiệm cao, năng động, lại có nhiều kinh nghiệm tổ chức sản xuất vũ khí ở Liên khu 3, đồng chí đã tập hợp một đội ngũ cán bộ và công nhân có trình độ kỹ thuật cao tập trung cho nhiệm vụ, điển hình là: Kỹ sư Lương Ngọc Khuê (chuyên về hóa chất), kỹ sư Đặng Trần Cảnh (chuyên về khoa khoáng và sản xuất kẽm), cán bộ Trịnh Văn Yên (đảm nhận kỹ thuật luyện gang),… Đây là lực lượng có vai trò quyết định xây dựng thành công lò cao luyện gang ngay trong điều kiện kháng chiến còn khó khăn.
Hàng nghìn tấn máy móc, thiết bị, vật tư được vận chuyển tới thung lũng Đồng Mười. Nhiên liệu than cốc đốt lò là một khó khăn lớn. Xác định không thể đủ than cốc để sản xuất gang, đội ngũ cán bộ và công nhân đã tận ụ gỗ lim xung quanh khu vực Đồng Mười làm nhiên liệu. Tháng 6/1950, cán bộ công nhân bắt tay xây dựng đồng thời 2 lò cao, lò NX1 kích thước lớn có dung tích 6.7m3 để sản xuất và lò NX2 kích thước nhỏ có dung tích 1m3 để thử nghiệm.
Ngày 12/09/1951, lò thử nghiệm NX2 luyện mẻ gang đầu tiên đã cho ra 250 kg gang xám chất lượng tốt sau 108 giờ hoạt động liên tục. Tiếp đó, ngày 7/11/1951, lò sản xuất NX1 có chiều cao 13m được khởi động. Do khói từ lò NX1 tỏa ra dày đặc, khiến địch dễ phát hiện, đội ngũ công nhân đã phải dừng hoạt động của lò và tiến hành đào một đường dẫn khói dài 500m nằm sâu dưới đất, có nhiều lỗ thông hơi để tản khói.
Đến ngày 21/12/1951, lò NX1 hoạt động trở lại và bắt đầu sản xuất liên tục. Chỉ sau 2 năm, lò NX1 và NX2 đã sản xuất và cung cấp gần 200 tấn gang cho các công binh xưởng ở Khu 4 để chế tạo vũ khí phục vụ cho các chiến trường đánh Pháp.
Giữa lúc hai lò cao đang hoạt động bình thường thì thực dân Pháp phát hiện và cho máy bay oanh tạc liên tiếp vào khu vực này. Dưới sự chỉ đạo của Cục Quân giới, dựa trên cơ sở nghiên cứu tình hình thực địa, đội ngũ kỹ sư, công nhân đã đi đến một giải pháp táo bạo là xây dựng lò cao trong hang núi đá Đồng Mười cách vị trí ban đầu 2km. Đây là một việc hết sức khó khăn, phức tạp về kỹ thuật và chưa có tiền lệ trên thế giới. Song với tinh thần quyết tâm và trí sáng tạo, sự giúp đỡ tận tình của nhân dân, tập thể kỹ sư, công nhân đã dùng mìn để mở cửa hang Đồng Mười, sau đó đưa các hệ thống của lò vào hang lắp ráp.
Bằng ý chí và nghị lực sáng tạo của đội ngũ kỹ sư và công nhân, cuối cùng lò cao có dung tích 8,3m3 cao 13m, có tên gọi NX3 được hoàn thành trong hang núi, công suất mỗi ngày 3 tấn gang. Trong buổi về thăm lại di tích trong hang Đồng Mười, ông Lê Xuân Cang, nguyên công nhân phụ trách trông coi đồng hồ gió nóng của lò cao NX3 kể lại:
“Lắp lò cao trong hang đá là cả một vấn đề, chạy lò trong hang mới là một thử thách mà không ai tưởng tượng nổi. Nguyên tiếng động máy, quạt, gió vào lò khiến cho thợ lò chỉ biết ra hiệu cho nhau mà vận hành lò, máy. Bên cạnh đó là sức nóng từ than lửa, không khí đặc. Các kỹ sư và các công nhân đã sáng tạo ra hang hút khói trên đỉnh cao, đặt quạt hút khói thay cho quạt đẩy khói, nhờ vậy mà mọi người thở được trong hang. Gió mát vào được trong hang. Không có sáng kiến nào tuyệt diệu hơn thế.”
Từ cuối năm 1951 đến tháng 7/1954, tổng cộng NX1 và NX3 đã sản xuất được 400 tấn gang, kịp thời đáp ứng được yêu cầu sản xuất, chế tạo vũ khí như mìn, lựu đạn, súng cối, đạn bazoka, chảo, nồi quân dụng. Ngay khi lò cao NX3 đi vào sản xuất ổn định thì lúc này quân Giải Phóng vừa thắng trận lớn tại đèo Hải Vân (tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng), vì vậy Hà Nội đã quyết định đổi tên thành Lò cao kháng chiến Hải Vân. Đến tháng 12/1954, lò cao chính thức ngừng hoạt động.
Lò cao kháng chiến Hải Vân là biểu tượng của ý chí tự lực tự cường, là sản phẩm của sự đoàn kết một lòng và tài năng sáng tạo của đội ngũ trí thức, công nhân quân giới đã làm nên một kỳ tích đặc biệt xuất sắc và duy nhất trên thế giới là xây dựng thành công lò cao sản xuất gang trong hang núi. Trong một dịp đến thăm lò, giáo sư sử học người Nga Boropsky đã phải thốt lên rằng: “Thật vĩ đại, ngoài sức tưởng tượng của chúng tôi”.
Thấy được ý nghĩa và giá trị to lớn của Lò cao kháng chiến Hải Vân, trên cơ sở đề nghị của UBND tỉnh Thanh Hóa, ngày 18/4/2013, Bộ VHTTDL đã quyết định xếp hạng Lò cao kháng chiến Hải Vân là di tích lịch sử cấp Quốc gia.