Máy bay F-4 Phantom Con Ma trong chiến tranh Việt Nam
Máy bay F-4 Phantom với biệt danh “Máy bay Con Ma” là máy bay chiến đấu ném bom của cả Không Quân Mỹ lẫn Hải Quân Mỹ và được xem là đối thủ của những máy bay MIG-21 của quân Bắc Việt trong chiến tranh Việt Nam
Vào năm 1953, Hải Quân Mỹ cảm thấy khá hài lòng với chiếc máy bay chiến đấu phản lực F-8U và đến năm 1955 đã bắt đầu yêu cầu nghiên cứu phát triển mẫu máy bay mới trang bị tên lửa đối không và Radar mạnh mẽ để thay thế những chiếc F-8U đang dùng pháo và chiếc F-4H ra đời và được thử nghiệm trên tàu sân bay lần đầu tiên năm 1960 và phiên bản của Không Quân Mỹ bay lần đầu tiên ngày 27 tháng 5 năm 1963
Máy bay McDonnell Douglas F-4 Phantom II là loại máy bay cỡ lớn 2 chổ ngồi, bay với tốc độ 2.2 lần âm thanh và mang theo 8.400Kg vũ khí bao gồm tên lửa đối không, tên lửa đối đất và bom. Do giới quân sự Mỹ cho rằng thời đại quan sát đối phương bằng mắt và sử dụng súng máy hay pháo để tiêu diệt đã qua nên với máy bay F-4, pháo đã bị gỡ bỏ và trang bị các tên lửa đối không để có thể tiêu diệt đối phương từ xa qua màn hình Radar. Sau khi được biên chế, máy bay F-4 đã thiết lập 16 kỷ lục thế giới cho đến khi bị phá vỡ bởi máy bay F-15 Eagle năm 1975
Trong chiến tranh Việt Nam, cho đến khi sự kiện Vịnh Bắc Bộ diễn ra, 13 phi đoàn trong số 31 phi đoàn của Hải Quân Mỹ đã trang bị máy bay F-4 Phantom với các phiên bản khác nhau là F-4B, F-4J, F-4N và chiếc F-4B Phantom cất cánh từ tàu sân bay Constellation ngày 5 tháng 8 năm 1964 là lần đầu tiên máy bay F-4 tham chiến ở chiến trường Việt Nam. Chiến công đầu tiên của máy bay F-4 diễn ra ngày 9 tháng 4 năm 1965 khi chiếc F-4 thuộc phi đội số 96 do trung úy Terence M. Murphy cùng phi công phụ Ensign Ronald Fegan đã bắn rơi 1 chiếc MIG-17 của quân Bắc Việt. Sau đó, chiếc F-4B của Murphy cũng bị bắn hạ. Các tranh cãi diễn ra do phía Quân Đội Mỹ cho biết, 1 máy bay F-4B khác đã bắn nhầm tên lửa AIM-7 Sparrow vào đồng đội. Phía Bắc Việt cho rằng máy bay F-4B bị pháo của MIG-17 bắn rơi. Sau đó đến ngày 17 tháng 6 năm 1965, đại úy Louis Page và phi công phụ là trung úy John C. Smith đã bắn rơi tiếp 1 chiếc MIG-17
Tháng 10 năm 1965, phiên bản F-4C bắt đầu được thử nghiệm ở Việt Nam và tiếp tục thử nghiệm phiên bản F4-E vào năm 1969
Trong cuộc chiến ở Việt Nam, sau khi mấy bay F-105 được rút khỏi Việt Nam, máy bay F-4 Phantom trở thành loại máy bay đa nhiệm vụ, vừa đóng vai trò máy bay tiêm kích, đánh chặn hộ tống các máy bay B-52 chống lại máy bay MIG, vừa làm nhiệm vụ của máy bay cường kích, ném bom yểm trợ mặt đất
Trong suốt cuộc chiến, máy bay F-4 Phantom của Hải Quân Mỹ đã tham gia 84 chiến dịch khác nhau. Tổn thất 73 chiếc với 7 chiếc trong không chiến, 13 chiếc do trúng tên lửa SAM, 53 chiếc do pháo phòng không và 54 chiếc do tai nạn. Ghi được 40 chiến thắng
Thủy Quân Lục Chiến Mỹ nhận những chiếc máy bay F-4 Con Ma đầu tiên vào tháng 6 năm 1962 và triển khai phi đội đầu tiên đến Đà Nẵng Việt Nam vào ngày 10 tháng 5 năm 1965 bắn rơi 3 chiếc MIG và tổn thất 75 chiếc
Không quân Mỹ tổn thất 445 chiếc máy bay F-4 Phantom, trong đó có 193 chiếc mất ở vùng Bắc Việt Nam , tổn thất 33 chiếc khi chiến đấu với MIG, 32 chiếc do tên lửa SAM và 307 chiếc do pháo phòng không số còn lại do tai nạn và bắn rơi 107.5 chiếc máy bay MIG các loại. Ở đây số 0.5 chiếc là do chung chiến công với đơn vị khác
Thông số kỹ thuật máy bay F-4
- Chiều dài : 19,2m
- Sải cánh : 11,7m
- Chiều cao : 5m
- Trọng lượng tối đa khi cất cánh : 16.706Kg
- Tải trọng vũ khí : 8.480Kg
- Tốc độ tối đa : 2.370 km/h ( Mach 2,2 )
- Trần bay cao nhất : 18.000m
- Tầm bay tối đa : 2.699 km
- Bán kính hoạt động : 680 km
- Phi hành đoàn : 02 người
Vũ khí
- 1 x pháo M61 Vulcan 20 mm (0,787 in), 640 viên đạn đến phiên bản F-4C mới được trang bị
- 8.480 kg bom , tên lửa bao gồm :
- bom thông thường và bom hạt nhân
- tên lửa không-đối-không AIM-9 Sidewinder
- tên lửa không-đối-không AIM-4 Falcon
- tên lửa không-đối-không AIM-7 Sparrow
- AIM-7E-2 Dogfight Sparrow được trang bị từ năm 1972