Cố vấn Mỹ trong chiến tranh Việt Nam – Us Advisors in Vietnam war
Tôi xin lược dịch tài liệu về cố vấn Mỹ trong chiến tranh Việt Nam – Us Advisors in Vietnam war được lưu trữ tại trung tâm Lịch Sử Quân Đội Mỹ do chuẩn tướng James L. Collin Jr. chủ biên
PHẦN I : GIỚI THIỆU
Quân đội Mỹ đã hỗ trợ lực lượng cố vấn nhằm mục đích huấn luyện quân đội quốc gia Việt Nam từ những năm 1955. Dù vậy, quân đội Mỹ đã can thiệp vào Đông Dương từ 5 năm trước đó bằng cách viện trợ cho quân đội Viễn Chinh Pháp ở chiến trường Đông Dương để chống lại lực lượng Việt Minh.
Cuối năm 1950, Mỹ thành lập nhóm Cố Vấn Hỗ Trợ Quân Sự Mỹ – US Military Assistance Advisory Group (MAAG) dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Tướng Francis G. Brink . Lúc này, chính quyền Việt Nam mới được thành lập 1 năm trước đó do sự thoả thuận giữa Quốc Trưởng Bảo Đại và người Pháp nhằm thành lập chế độ có khả năng chống lại Việt Minh. Chính Phủ Mỹ nhanh chóng công nhận Bảo Đại và cùng người Pháp ký thoả thuận với các quốc gia Đông Dương là Việt Nam, Lào và Campuchia vào tháng 12 năm 1950. Thoả thuận này được gọi là “Pentalateral Agreements” và được xem là bước đầu tiên để Mỹ viện trợ kinh tế và quân sự vào Việt Nam và khu vực Đông Dương
Việt Nam lúc này nằm trong Liên Hiệp Pháp và được công nhận một mức độ tự trị nhưng không hoàn toàn độc lập. Trong giai đoạn này, quân đội Việt Nam bắt đầu được thành lập do trước đó bị Pháp nghiêm cấm thành lập quân đội riêng. Khởi đầu, quân đội Việt Nam chỉ là các đơn vị phụ trợ, được đào tạo và huấn luyện bởi các sĩ quan Pháp. Dần dần được nâng lên cấp tiểu đoàn và hoàn toàn do người Việt chỉ huy vào năm 1953.
Những năm 1952, quân đội Việt nam đặt dưới quyền chỉ huy của Bộ Tổng Tham Mưu và sau đó dần hình thành 4 Vùng Chiến Thuật. Tuy nhiên phần lớn vẫn do sĩ quan Pháp chỉ huy. Thời gian này, sự can thiệp của người Mỹ chỉ giới hạn ở việc kiểm tra xem các thiết bị viện trợ đã được bàn giao đúng cho quân đội Pháp và những sĩ quan người Việt Nam chỉ biết đến viện trợ của người Mỹ khi các sĩ quan cố vấn Mỹ viếng thăm vào năm 1953
Sự can thiệp của Mỹ chỉ xuất hiện rõ sau hiệp định Geneva 1954 khi hình thành chính quyền miền Nam Việt Nam nằm dưới vĩ tuyến 17. Đây là kết quả của sự thoả thuận giữa tướng J. Lawton Collins là đặc phái viên của tổng thống Mỹ Eisenhower và tướng Paul Ely – tổng tư lệnh tối cao quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương. Với thoả thuận này, quân đội Nam Việt Nam sẽ bắt đầu nhận viện trợ, huấn luyện và tổ chức cơ cấu từ cơ quan MAAG từ ngày 1 tháng 1 năm 1955 và sẽ được toàn quyền tự quản sau đó 6 tháng. Lúc này Bộ Tổng Tham Mưu đều toàn là người Việt và dưới quyền của tướng Lê Văn Tỵ. Sau khi cải biên các đơn vị từ Vùng 3 ở phía Bắc Việt Nam, quân đội Việt Nam bao gồm 215.997 người bao gồm 179.197 người là binh sĩ thường trực và được biên chế thành 168 tiểu đoàn. Tất cả tập hợp thành 03 sư đoàn bộ binh bao gồm : sử đoàn 11, sư đoàn 21 và sư đoàn 31
Từ tháng 4 năm 1954, trung tướng John W. O’Daniel đã thay thế thiếu tướng Thomas J. H. Trapnell làm tổng chỉ huy cơ quan MAAG. Trung tướng O’Daniel đã ban hành Nhiệm Vụ Huấn Luyện và Chỉ Dẫn – Training and Instruction Mission (TRIM) vào ngày 1 tháng 2 năm 1955. Các sĩ quan thuộc TRIM phần lớn là người Mỹ và một số người Pháp, được tăng cường từ tháng 4 năm 1955 cho các đơn vị quân đội Việt Nam ở các đơn vị sư đoàn bộ binh, lữ đoàn nhảy dù và các trung tâm huấn luyện. Khoảng 1 tháng sau, các sĩ quan cố vấn Mỹ bắt đầu được tăng cường đến Bộ Chỉ Huy các Vùng Chiến Thuật
Ngày 10 tháng 4 năm 1955, Bộ Tổng Tham Mưu ban hành một Bản Ghi Nhớ số 1891/TTM/MG do tướng Lê Văn Tỵ ký và ghi rõ nhiệm vụ của các cố vấn Mỹ :
“Hỗ trợ và huấn luyện về các khía cạnh kỹ thuật. Tất cả nhằm xây dựng quân đội Việt Nam trên nền tảng mới một cách nhanh chóng và hiệu quả” .
“Khía cạnh kỹ thuật” đó là những kỹ thuật tác chiến, vũ khí, … còn “Nền Tảng Mới” là những học thuyết về quân sự mới của quân đội Mỹ
Sự kết hợp huấn luyện và tổ chức kéo dài hơn 1 năm cho đến khi Bộ Tư Lệnh Tối Cao Quân Đội Pháp ở Đông Dương giải tán vào ngày 28 tháng 4 năm 1956. Quân đội Việt Nam lúc này hoàn toàn tự chủ và tiếp nhận những hoạt động quân sự sau khi quân Pháp rời khỏi Việt Nam. Tuy nhiên, một số sĩ quan Pháp vẫn còn ở lại để huấn luyện và tổ chức quân đội Việt Nam trong binh chủng Không Quân và Hải Quân cho đến khi chính phủ Việt Nam chấm dứt nhiệm vụ của các sĩ quan Pháp vào tháng 5 năm 1957
Với sự viện trợ về kinh tế và quân sự, miền Nam Việt Nam bắt đầu tái thiết đất nước. Ngày 26 tháng 10 năm 1955, tổng thống Ngô Đình Diệm tuyên bố thành lập nước Việt Nam Cộng Hoà và đảm nhiệm chức tổng thống và cũng là chỉ huy tối cao của quân đội. Quân đội Việt Nam trở thành Quân Đội Việt Nam Cộng Hoà – Rebublic of Vietnam Armed Force (RVNAF) . Cơ quan MAAG Đông Dương cũng đổi thành cơ quan MAAG Việt Nam nhằm tách biệt 3 nước Lào, Việt Nam, Campuchia
Việc quân đội Pháp rút khỏi miền Nam Việt Nam để lại gánh nặng về hậu cần. Quân đội VNCH không được tổ chức và huấn luyện về công tác hậu cần. Lúc này trung tướng Samuel T. Williams đã thay thế trung tướng O’Daniel từ tháng 11 năm 1955 cũng gặp khó khăn trong việc xác định và khôi phục lại các khu vực nhà kho, công tác vận tải, tiếp liệu, … Quân đội VNCH cũng chẳng thể nắm rõ đang nắm bao nhiêu vũ khí, trang thiết bị, … trong tay.
Tháng 6 năm 1956, Mỹ thành lập cơ quan chuyên trách Khôi Phục Thiết Bị Tạm Thời – Temporary Equipment Recovery Mission (TERM) để giúp quân đội VNCH tái thiết lại hệ thống hậu cầu . Các nhân sự phục vụ cơ quan TERM sau đó cũng được tăng cường cho cơ quan MAAG ở Việt Nam và đến năm 1960 có tổng cộng 692 người.
Xem tiếp : Cố vấn Mỹ trong chiến tranh Việt Nam – Us Advisors in Vietnam war – P2